This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Chứng tiêu chảy ở trẻ em

Phòng bệnh lỵ ở trẻ em

(suckhoedoisong.vn) - Lỵ là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính gây tổn thương ruột già và đoạn cuối ruột non. Khác với người lớn, lỵ ở trẻ em có diễn biến cấp tính và thường rất nặng. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường gặp vào mùa hè và mùa mưa lũ. Bệnh có nguy cơ lây cao ở những vùng không được dùng nguồn nước sạch và ở trẻ em do chưa có ý thức về vệ sinh.

Tác nhân gây bệnh

Do vi khuẩn shigella, có 4 chủng (Shigella dysenterias - nhóm A, S.flexneri - nhóm B, S.boydii - nhóm C, S.sonnei-nhóm D), vi khuẩn dài, hình que ngắn (nên gọi trực trùng), gram (-), không di động. Dễ nuôi trong môi trường thạch ở nhiệt độ 37 độ. Trực khuẩn lỵ có thể sống ở đất được vài tháng, ở ruồi nhặng 2 - 3 ngày, ở đồ chơi, đồ dùng, giường chiếu được vài ngày, ở sữa và chế phẩm của sữa còn có khả năng phát triển mạnh hơn.

 Rửa tay trước khi chế biến thức ăn cho trẻ.

Mỗi năm trên thế giới có khoảng 600.000 bệnh nhân tử vong do lỵ trực khuẩn. 2/3 số trường hợp mắc và tử vong là ở trẻ em dưới 10 tuổi. Bệnh ít gặp ở trẻ dưới 6 tháng tuổi. Bệnh hay gặp ở nơi đông người, vệ sinh kém: trung tâm nuôi dưỡng trẻ, trại mồ côi, vùng lũ lụt.

Lỵ dễ bị chết nếu phơi ở ánh nắng mặt trời, nếu đun sôi sẽ chết trong 10 phút. Vi khuẩn lỵ có khả năng sinh sôi và gây bệnh rất mạnh. Chỉ cần 10 - 100 trực khuẩn là có thể gây bệnh ở người.

Dễ lây lan thành dịch

Có 2 phương thức lây truyền trực tiếp và gián tiếp. Lây trực tiếp là lây từ người bị bệnh sang người lành hoặc do tay bị nhiễm khuẩn. Những người có nguy cơ lây cao như không rửa tay sau khi đi ngoài, để móng tay dài, không rửa tay trước khi ăn . Yếu tố lây nhiễm qua trung gian như đồ dùng chung, thực phẩm, nước uống (hay tắm ao hồ nhiễm trực khuẩn), ruồi nhặng...

Trực khuẩn lỵ từ miệng qua dạ dày, tại đây một số bị diệt bởi dịch vị, số còn lại qua ruột non đến ruột già bám dính vào niêm mạc, xâm nhập qua niêm mạc và gây bệnh. Tất cả mọi người đều có tính cảm nhiễm với bệnh. Trẻ em nhất là trẻ suy dinh dưỡng nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn.

Những dấu hiệu của bệnh

Thời kỳ ủ bệnh từ 12 đến 96 giờ. Sau đó khởi phát thường đột ngột với các triệu chứng sau:

Nếu nhẹ, đau bụng từng cơn, buồn đi ngoài (lúc đầu phân lỏng về sau nhớt nhầy, mủ) 10 - 15 lần/ngày. Nặng thì có biểu hiện đau quặn bụng từng cơn, mót rặn dữ dội. Trẻ khóc từng cơn khi đi ngoài, phân lỏng, đi nhiều lần, số lượng ít, phân có nhày, có khi phân toàn máu “như nước rửa thịt” hoặc màu “máu cá”. Có khi phân nhày như mủ và rất tanh.

 Trực khuẩn lỵ Shigella.

Có sốt, nhẹ thì 38 - 39oC, nặng thì 40 - 41oC, có khi sốt cao gây co giật. Biểu hiện khác: tăng urê huyết, hạ natri và đường huyết, bất thường ở hệ thần kinh (co giật, rối loạn tri giác, tư thế bất thường...). Ít phổ biến hơn có thể gặp viêm khớp phản ứng, đau nhức toàn thân, nước tiểu có albumin. Có thể có sốc, hôn mê (đặc biệt trong thể lỵ nhiễm độc do S. shigae).

Xét nghiệm có giá trị nhất để phát hiện trực khuẩn lỵ là cấy phân để xác định căn nguyên gây bệnh và làm kháng sinh đồ. Soi phân tươi tìm hồng cầu và bạch cầu trong phân, định týp huyết thanh chỉ có giá trị nghiên cứu, đặc biệt trong mùa dịch. Xét nghiệm công thức máu có bạch cầu tăng cao. Các xét nghiệm khác đánh giá mức độ rối loạn nội môi: điện giải đồ, protit, ure, creatinin, khí máu.

Cần chú ý phân biệt với các bệnh tiêu chảy ở trẻ em như tiêu chảy do virut, do nhiễm khuẩn nhiễm độc thức ăn, lỵ amip, E. coli và lồng ruột...

Phòng bệnh bằng cách giữ vệ sinh hằng ngày

Phát hiện sớm và điều trị triệt để là biện pháp quan trọng tránh cho bệnh lây lan thành dịch hoặc trở thành ổ chứa mầm bệnh. Để phòng lỵ ở trẻ em, việc giữ gìn vệ sinh cá nhân cho trẻ cần được chú trọng hàng đầu như: rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh; cắt ngắn móng tay, không phóng uế bừa bãi; vệ sinh thức ăn, nước uống: ăn chín, uống sôi, bảo quản thức ăn tốt; cắt đường lây truyền trung gian gây bệnh (diệt ruồi, nhặng); nếu bị bệnh, cần được điều trị theo đúng phác đồ của bác sĩ và cần được cách ly 10 - 15 ngày.

Nếu bệnh có nguy cơ bùng phát thành dịch, cần báo ngay với cơ quan kiểm dịch tại địa phương.            

  BS.Nguyễn Thị Phương Anh

Phòng và trị viêm tiểu phế quản ở trẻ nhỏ

Viêm tiểu phế quản là bệnh hô hấp cấp tính, rất hay gặp ở trẻ nhỏ do viêm tắc các đường hô hấp nhỏ (hay còn gọi là tiểu phế quản). Bệnh xuất hiện trong 2 năm đầu, với tần suất cao nhất vào 6 tháng tuổi và ở nhiều nơi bệnh là một trong những nguyên nhân thường xuyên làm trẻ phải nhập viện.

 

Bệnh xuất hiện quanh năm, cao nhất vào mùa đông và đầu mùa xuân, có thể xuất hiện lẻ tẻ, đôi khi thành dịch. Nếu bệnh được phát hiện và điều trị sớm sẽ cho kết quả tốt, những trường hợp nặng gây suy hô hấp có thể bị tử vong.

 Ảnh minh họa (nguồn Internet)

Trẻ nào dễ mắc bệnh?

 

Tác nhân viêm tiểu phế quản ở trẻ thường là do các virut như: virut hợp bào hô hấp (VRS), chiếm 30 - 50% các trường hợp mắc bệnh. Virut cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số trẻ bị viêm tiểu phế quản. Ngoài ra phải kể đến Adenovirus với 10% số mắc.

Nếu trẻ sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virut hợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đề kháng ở cơ thể trẻ còn quá yếu, nhất là trẻ đang ở tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ.

Ngoài ra, các trường hợp trẻ bị bệnh tim bẩm sinh, bệnh phổi bẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, không khí ô nhiễm, nhà ở ẩm thấp, chật chội, hay bị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ cao mắc phải viêm tiểu phế quản.

 Virut Respiratoire Syncytial (VRS) - virut hợp bào hô hấp gây viêm tiểu phế quản .

Dấu hiệu để nhận biết

Viêm tiểu phế quản là bệnh chỉ xảy ra ở trẻ dưới 24 tháng tuổi, thường gặp nhất là 3 - 6 tháng tuổi. Khi mắc bệnh, các phế quản nhỏ này bị viêm, sưng phù, tiết nhiều dịch làm cho đường thở của trẻ bị chít hẹp thậm chí tắc nghẽn. Vì vậy, trẻ sẽ bị khò khè, khó thở và nặng hơn nữa trẻ sẽ bị thiếu ôxy để thở.

Triệu chứng ban đầu thường thấy nhất là tình trạng trẻ ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Bạn nên lưu ý vì sốt không phải triệu chứng đặc trưng của bệnh. Trên thực tế, có rất nhiều trẻ viêm tiểu phế quản không bị sốt hoặc chỉ bị sốt nhẹ. Trẻ có thể xuất hiện những cơn ho ngày một kéo dài, nhất là về nửa đêm hoặc gần sáng. Khi ấy, trẻ thường thở khò khè hoặc khó thở, thậm chí ngừng thở, bú kém, hay bị nôn trớ. Thông thường, trẻ sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày sau đó giảm dần rồi khỏi hẳn. Cá biệt có một số trường hợp ho sẽ kéo dài hơn.

Viêm tiểu phế quản là nguyên nhân hàng đầu của các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp nặng ở trẻ nhỏ đặc biệt là các nước u - Mỹ vì bệnh có khả năng trở thành dịch lớn. Ở Hoa Kỳ: 120.000 trẻ nhập viện vì viêm tiểu phế quản hằng năm. Ở Việt Nam, theo một thống kê chưa đầy đủ cho thấy, đây cũng là bệnh phổ biến ở trẻ dưới 2 tuổi, với một con số ước tính khoảng 40% số ca bệnh nhi phải điều trị tại các khoa hô hấp.

Biến chứng nào có thể xảy ra?

Nếu không được chẩn đoán đúng bệnh và điều trị tốt sẽ dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như: rối loạn chức năng hô hấp, xuất hiện từng cơn khó thở tái phát, viêm tiểu phế quản lan tỏa. Nghiêm trọng hơn sẽ làm trẻ bị suy hô hấp cấp, tràn khí màng phổi, viêm phổi - trung thất, xẹp phổi và thậm chí tử vong.

Bệnh sẽ có biến chứng nặng hơn ở trẻ dưới 3 tháng tuổi, trẻ sinh non - nhẹ cân, trẻ suy dinh dưỡng nặng, trẻ có sẵn bệnh tim, phổi, suy giảm miễn dịch.

Điều trị và phòng bệnh

Với các trường hợp nhẹ chỉ cần chăm sóc tại nhà: tiếp tục cho trẻ bú hay ăn uống đầy đủ. Cần cho trẻ uống nhiều nước để tránh thiếu nước và làm loãng đờm. Có thể nhỏ mũi 2-3 giọt nước muối sinh lý sau đó làm sạch mũi cho trẻ. Để giảm ho, long đờm cho bé có thể sử dụng mật ong hấp với quả quất còn xanh hoặc mật ong hấp lá hẹ. Nếu các biện pháp trên không mang lại hiệu quả, cần đưa bé tới bác sĩ khám để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

 Hình ảnh viêm tiểu phế quản xơ hóa tắc nghẽn trên phim chụp Xquang.

Những trẻ có dấu hiệu nặng như khó thở, bú kém, tím tái... hoặc có các yếu tố nguy cơ như trẻ dưới 3 tháng tuổi, trẻ sinh non, có bệnh tim phổi bẩm sinh, trẻ suy giảm miễn dịch thì cần nhập viện.

Để phòng bệnh hiệu quả, các bà mẹ hãy cho trẻ bú sữa mẹ đến 2 tuổi, không để trẻ bị lạnh, giữ cho môi trường sống của trẻ được trong lành, không cho trẻ tiếp xúc với khói bếp than, khói thuốc lá, mầm bệnh.

Tránh cho trẻ tiếp xúc gần gũi với trẻ lớn, người lớn đang bị cảm lạnh cũng như các trẻ bệnh khác. Cần rửa tay sạch sẽ trước khi chăm sóc trẻ (vì virut gây bệnh lây lan chủ yếu qua việc tiếp xúc trực tiếp). Cha mẹ nên vệ sinh cơ thể, đặc biệt là khu vực tai, mũi, họng cho trẻ hằng ngày.

Phòng ngủ của trẻ cần được đặc biệt thông thoáng, trong lành. Không nên trải thảm trong phòng trẻ. Nên thường xuyên giặt chăn, gối dành cho trẻ, sau đó phơi nắng thật khô.

 BS. Nguyễn Duy Quang

Chăm sóc trẻ sốt xuất huyết tại nhà

Sốt xuất huyết (SXH) được xem là một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho con người, trong đó trẻ em mắc bệnh sốt xuất huyết chiếm khoảng 70%. Trẻ em tử vong do bệnh SXH vẫn còn rất cao, nhất là những trường hợp trẻ mắc sốt xuất huyết Dengue nặng. Để cải thiện đáng kể tình trạng tử vong do bệnh SXH, việc chăm sóc đúng cách trẻ mắc bệnh SXH tại nhà cần phải được chú trọng vì cho đến thời điểm hiện nay SXH chưa có thuốc đặc trị và vẫn chưa có vắc-xin phòng ngừa.


Đối tượng trẻ em mắc bệnh SXH được chỉ định theo dõi và chăm sóc tại nhà

Theo báo cáo từ Cục thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2012 cả nước ghi nhận khoảng 23.200 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, trong đó có 11 trường hợp tử vong phần lớn là trẻ em.

Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2009, bệnh SXH gồm 3 phân độ lâm sàng cơ bản sau đây:

Phân độ 1: sốt xuất huyết Dengue.

Phân độ 2: sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo.

Phân độ 3: sốt xuất huyết Dengue nặng.

Việc xử trí và điều trị bệnh SXH tùy thuộc từng phân độ lâm sàng theo phác đồ “Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí bệnh sốt xuất huyết” do Bộ Y tế ban hành ngày 16/2/2011.

Người lớn hoặc trẻ em nếu được chẩn đoán là bị sốt xuất huyết Dengue (phân độ 1), hầu hết đều được bác sĩ chỉ định theo dõi và chăm sóc tại nhà, ngoại trừ những trường hợp sau đây:

- Người mắc bệnh sốt xuất huyết là phụ nữ đang mang thai.

- Trẻ mắc bệnh sốt xuất huyết là trẻ nhũ nhi (trẻ nhỏ dưới 12 tháng tuổi).

- Sốt xuất huyết Dengue ở người cao tuổi đang mắc các bệnh mạn tính như hô hấp, tim mạch, cao huyết áp, suy tim, suyễn…

- Người mắc bệnh sốt xuất huyết sống neo đơn hoặc ở quá xa các cơ sở y tế.

Tất cả 4 nhóm đối tượng trên mặc dù chỉ bị sốt xuất huyết Dengue, bệnh nhân vẫn được khuyến cáo cho nhập viện để theo dõi vì sự an toàn cho người bệnh.

Chăm sóc đúng cách trẻ mắc SXH tại nhà                  

Chăm sóc đúng cách trẻ mắc bệnh SXH tại nhà cần tuân thủ 4 nguyên tắc sau đây:

Hạ sốt đúng cách cho trẻ: cho trẻ uống thuốc hạ sốt Paracetamol loại đơn chất với liều 10 - 15mg/kg cân nặng, 4 - 6 giờ một lần. Lau mát cho trẻ bằng nước ấm để tránh biến chứng sốt cao gây co giật cho trẻ.

Đảm bảo việc bù nước và chế độ dinh dưỡng cho trẻ bao gồm:

- Cho trẻ uống nhiều nước: bằng nhiều loại nước uống khác nhau như nước lọc, nước sôi nguội, nước cam, nước chanh, nước dừa tươi, nước canh, nước cháo… và khuyến cáo trẻ nên uống nước oresol (nước biển khô).

- Cho trẻ ăn thức ăn lỏng, giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hóa như cháo, súp, sữa… kết hợp chế độ nghỉ ngơi hợp lý giúp trẻ mau lành bệnh.

- Tái khám mỗi ngày theo hẹn của bác sĩ.

Phát hiện sớm dấu hiệu bệnh trở nặng để cho trẻ nhập viện cấp cứu kịp thời: phải theo dõi sát vì thời điểm nguy hiểm nhất của bệnh SXH là khi trẻ hết sốt (thường từ ngày thứ 3 đến hết ngày thứ 6) trẻ có thể trở nặng và sốc dẫn đến tử vong nhanh chóng nếu không được phát hiện kịp thời. Các dấu hiệu trở nặng của bệnh SXH cần chú ý:

- Trẻ ói mửa nhiều; đau bụng.

- Bứt rứt; quấy khóc; lừ đừ; li bì; tay chân lạnh, tím, vã mồ hôi.

- Chảy máu mũi, chảy máu chân răng, ói máu, đi tiêu phân đen.

Tuyệt đối tránh những tác động không tốt sau đây:

- Không nên cạo gió, cắt lể vì sẽ làm đau và có thể gây chảy máu, nhiễm trùng cho trẻ.

- Không tự ý cho trẻ uống thuốc aspirine hoặc ibuprofen vì có thể gây chảy máu dạ dày.

-  Không cho trẻ uống những loại nước có màu đen hoặc đỏ như Coca, Pepsi… vì có thể gây nhầm lẫn với tình trạng xuất huyết tiêu hóa ở trẻ.

- Không cho trẻ SXH truyền dịch tại các phòng khám tư hoặc cơ sở y tế không đủ điều kiện, vì đã có nhiều trường hợp truyền dịch không đúng làm bệnh trở nặng và kéo dài, dễ gây phù nề, suy tim nặng… khi chuyển đến bệnh viện thì đã quá trễ không thể cứu sống trẻ.

ThS.BS ĐINH THẠC

Hội chứng asperger

Thuốc điều trị khò khè do virut ở trẻ

Khi không có các bất thường cấu trúc đường thở, nhiễm virut đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân của phần lớn các trường hợp khò khè ở trẻ em, trong đó, hợp bào hô hấp là loại virut thường gặp nhất. Do thiếu những phương pháp điều trị đặc hiệu virut nên việc điều trị khò khè do virut ở trẻ em là không có sự khác biệt giữa các loại virut. Nói chung, các phương pháp điều trị này phần lớn được lựa chọn dựa trên kinh nghiệm của các thầy thuốc.

Thuốc giãn phế quản: Là nhóm thuốc được dùng rất phổ biến trong điều trị khò khè ở trẻ em, tuy nhiên, việc sử dụng chúng một cách thường quy vẫn còn nhiều tranh cãi và nhiều nghiên cứu đã không tìm ra những bằng chứng khách quan về lợi ích của chúng. Salbutamol (albuterol) là thuốc được sử dụng rộng rãi nhất cho chỉ định này, tuy nhiên, các bằng chứng y học về hiệu quả điều trị của thuốc không hằng định. Một số nghiên cứu quy mô nhỏ đã chỉ ra lợi ích của salbutamol đường khí dung trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut ở trẻ em dưới 2 tuổi với việc cải thiện triệu chứng và nồng độ ôxy trong máu. Trong khi đó, một số nghiên cứu khác lại không tìm thấy tác dụng ổn định của salbutamol trong chỉ định này.

 

Phần lớn các nghiên cứu đều nhận thấy sự cải thiện triệu chứng bệnh xảy ra nhanh chóng sau dùng thuốc nhưng phần lớn những sự cải thiện này đều không kéo dài quá 60 phút. Tóm lại, lợi ích của salbutamol trong điều trị viêm tiểu phế quản là không hằng định, do đó, cần theo dõi sự đáp ứng của từng cá thể và ngưng sử dụng nếu không có sự cải thiện rõ rệt. Adrenalin (epinephrine) cũng là một thuốc giãn phế quản được sử dụng khá thường xuyên trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut có tắc nghẽn đường thở. Thuốc có nhiều tác dụng phụ như gây nhịp tim nhanh, run chân tay, hạ kali máu, hạ đường máu..., do đó, không được sử dụng trong điều trị ngoại trú tại nhà.

 

 Nhiễm virut đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân của nhiều trường hợp khò khè ở trẻ.
Cũng giống với salbutamol, không có những bằng chứng rõ rệt chứng minh hiệu quả của adrenalin trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut. So sánh với salbutamol khí dung, một số nghiên cứu đã nhận thấy ưu điểm vượt trội của adrenalin trong việc giảm mức độ khó thở và nguy cơ nhập viện. Tóm lại, những bằng chứng y học có được cho đến nay không ủng hộ việc sử dụng thường quy salbutamol và adrenalin trong điều trị viêm tiểu phế quản ở trẻ nhỏ, thay vào đó là sự lựa chọn sử dụng cho từng người bệnh. Việc điều trị chỉ nên tiếp tục nếu nhận thấy có sự cải thiện trên lâm sàng, ngược lại, khi không có sự cải thiện cần ngưng điều trị để tránh các tác dụng phụ.

Thuốc kháng cholinergic: Các dẫn xuất kháng cholinergic như ipratropium bromide... không được tìm thấy có hiệu quả trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả của ipratropium đơn thuần hoặc phối hợp với salbutamol chỉ tìm thấy những sự cải thiện nhỏ của nồng độ ôxy máu nhưng không tìm thấy lợi ích rõ rệt và ổn định đối với diễn biến và tiên lượng của bệnh.

Kháng sinh: Mặc dù kháng sinh không có tác dụng đối với virut nhưng nhóm thuốc này vẫn được sử dụng khá phổ biến trong điều trị viêm tiểu phế quản ở trẻ em. Khảo sát ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, 34 - 99% số trẻ bị viêm tiểu phế quản do virut vẫn được dùng kháng sinh. Lý do sử dụng kháng sinh thường do trẻ có sốt và rất khó để phân biệt nguyên nhân sốt là do nhiễm vi khuẩn hay nhiễm virut. Nguy cơ bội nhiễm vi khuẩn ở những trẻ bị viêm tiểu phế quản do virut dao động trong khoảng 0,2-26%. Nói chung, kháng sinh được khuyến cáo dùng trong điều trị viêm tiểu phế quản do virut chỉ khi có bằng chứng rõ ràng của việc bội nhiễm vi khuẩn. Trong trường hợp đó, việc sử dụng kháng sinh không có khác biệt so với những trường hợp không có viêm tiểu phế quản.

Thuốc kháng leukotriene: Các bằng chứng thực nghiệm ở động vật cho thấy các leukotriene được giải phóng khi có tình trạng nhiễm virut cũng như phản ứng viêm và tình trạng tăng tính phản ứng đường thở. Điều này gợi ý các thuốc kháng leukotriene có thể có một vai trò trong điều trị viêm tiểu phế quản cấp do virut. Nhiều nghiên cứu được tiến hành trong những năm qua đã phần nào khẳng định hiệu quả của tiếp cận điều trị này trong thực tế.

 

Theo những nghiên cứu này, montelukast (một dẫn xuất kháng leukotriene), giúp tăng số ngày không triệu chứng và giảm triệu chứng ho về ban ngày so với giả dược khi được dùng điều trị kéo dài trong và sau đợt cấp của viêm tiểu phế quản do virut. Nói chung, hiệu quả của montelukast ở trẻ nhỏ rõ rệt hơn so với các trẻ lớn, điều này được cho là do sự khác biệt trong sản xuất leukotriene liên quan đến tuổi. Hiện nay, vai trò dự phòng viêm tiểu phế quản khi được dùng trước mùa virut của các thuốc kháng leukotriene là vấn đề vẫn đang cần được nghiên cứu tìm lời giải.            

  BS.Nguyễn Hữu Trường (BV Bạch Mai)

Cẩn thận khi trẻ mắc bệnh sởi, quai bị, rubella

Sởi, quai bị và Rubella là ba loại bệnh gây ra bởi siêu vi trùng và rất dễ lây lan. Trẻ có thể bị mắc bệnh khi tiếp xúc với dịch tiết bắn ra từ người bệnh lúc người bệnh ho, hắt hơi, nhảy mũi. Với ba loại bệnh này, hầu hết trẻ khi mắc bệnh đều hồi phục hoàn toàn sau một thời gian ngắn. Tuy vậy, ở những trẻ có sức đề kháng kém, trẻ bị suy dinh dưỡng, trẻ bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải, bệnh xảy ra có thể diễn tiến nặng gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm.

Trẻ cần tiêm vaccin để phòng ngừa sởi, quai bị, rubella. Ảnh minh họa

Dễ lây lan và biến chứng nguy hiểm

Thực tế, nhiều người còn thiếu hiểu biết và rất chủ quan với căn bệnh này nên dẫn tới những trường hợp bệnh nặng, thậm chí tử vong đáng tiếc. Điển hình gần nhất là trường hợp một bé trai hơn 2 tuổi trong tình trạng toàn thân nổi ban đỏ, sốt cao và bé rất mệt mỏi. Mẹ bé cho biết bé bị bệnh sởi, vì gia đình sợ bé ra gió sẽ nặng thêm nên lúc nào cũng ủ kín bé. Sau khi được tư vấn gia đình mới hiểu do chăm sóc sai nên bé mới bị nặng thêm.

Hiện nay sởi, quai bị và rubella là những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đối với trẻ em vì khả năng lây nhiễm khá cao trong cộng đồng và có khả năng tạo thành dịch lớn. Khi nhiễm bệnh thì sẽ có nhiều tác động bất lợi trên sức khỏe trẻ. Nguy hiểm nhất là những biến chứng các bệnh này để lại như viêm não, viêm phổi, viêm tinh hoàn ở trẻ nam, viêm buồng trứng ở bé gái, viêm khớp hoặc hội chứng rubella bẩm sinh làm trẻ sinh ra bị rất nhiều dị tật trên cơ thể như điếc, mù, bệnh tim bẩm sinh và kém phát triển. Ngoài ra, sởi được xem là nguyên nhân phổ biến gây tử vong cho trẻ em, quai bị có thể gây vô sinh ở nam giới.

Nhận biết bệnh

Hầu hết khi trẻ mắc bệnh sởi, quai bị và rubella có triệu chứng giống nhau như sốt, ho, đau nhức. Bệnh sởi sẽ xuất hiện ban dạng sẩn đầu tiên là ở sau tai sau đó lan đến mặt rồi lan dần xuống bụng và toàn thân. Sau khi hết sẽ để lại vết thâm trên da. Nổi ban dày và màu nhạt hơn ban sởi là bệnh rubella, bên cạnh đó kèm theo tình trạng sưng hạch, đau khớp. Quai bị thường bị sưng tuyến mang tai, gây đau nhức khi nhai và sưng tinh hoàn.

Riêng đối với trẻ có hội chứng rubella bẩm sinh thường có những dấu hiệu như đục thủy tinh thể và giảm thính giác nhưng chỉ có thể nhận thấy từ 2 - 4 năm sau.

Tiêm ngừa phòng bệnh

Khi trẻ nhiễm bệnh có dấu hiệu sốt trên 38,50C nên cho trẻ uống thuốc hạ sốt. Nếu trẻ ho có thể cho uống thuốc giảm ho. Về chế độ ăn uống, phải đầy đủ chất dinh dưỡng, ăn thức ăn lỏng, mềm và có thể chia nhỏ khẩu phần ăn làm nhiều lần trong ngày giúp trẻ dễ tiêu hóa. Nên cho trẻ uống thêm nhiều nước đặc biệt là các loại nước ép trái cây giàu vitamin C. Hạn chế cho trẻ vận động thể lực mạnh như chạy nhảy, đùa giỡn. Ngoài ra, phải giữ vệ sinh tốt cho trẻ để tránh nhiễm thêm vi trùng, tuyệt đối không nên ủ kín hoặc kiêng tắm khi trẻ bị sởi bởi sẽ làm cho tình trạng bệnh thêm trầm trọng. Bên cạnh đó cần chú trọng việc vệ sinh nhà cửa và môi trường chung quanh, giữ gìn phòng ốc thông thoáng, sạch sẽ và cách ly trẻ lành với người bệnh.

Cách phòng ngừa bệnh sởi, quai bị và rubella cho trẻ hiệu quả nhất là tiêm ngừa vắc-xin phòng bệnh. Hiện nay đã có vắc-xin 3 trong 1 (một mũi tiêm chứa cả 3 thành phần sởi, quai bị và rubella) giúp phòng ngừa các bệnh này. Trẻ từ 12 - 15 tháng tuổi có thể tiêm ngừa để phòng tránh hiệu quả các bệnh này.

ThS. BS. ĐINH THẠC

Cải thiện và phòng tránh tật khúc xạ ở trẻ em

Theo điều tra của Bệnh viện Mắt trung ương cho thấy, tỷ lệ tật khúc xạ như cận thị, loạn thị, viễn thị... ngày càng gia tăng, từ 2,5% trong năm 2002 lên 25%-30% năm 2007, đặc biệt ở trẻ em lứa tuổi đến trường và tập trung ở các đô thị. Tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có tới hơn 40% học sinh phổ thông mắc các tật khúc xạ...

Tật khúc xạ ảnh hưởng đến 2,5 tỷ người (khoảng 20% dân số) trên toàn thế giới. Ở nước ta tỷ lệ mắc tật khúc xạ ngày càng tăng ở trẻ với khoảng 3 triệu trẻ em trong cả nước cần đeo kính. Đặc biệt, học sinh thành thị mắc tật khúc xạ có tỷ lệ rất cao, chiếm tới 40% - 50% số học sinh, trong khi tỷ lệ học sinh ở nông thôn bị tật khúc xạ chỉ chiếm khoảng 15%. Không có gì ngạc nhiên khi con số thống kê cho biết 79% các em bị tật khúc xạ là cận thị. Nhẩm tính ra tiền kính, tiền thuốc, tiền khám bệnh mỗi cháu cũng gần đến tiền triệu.

 

Chưa kể những bất tiện cho trẻ đeo kính, nguy cơ tiềm tàng về tai nạn do mắt kính, gọng kính và các biến chứng khác. Tính phổ biến của tật khúc xạ, gánh nặng chi phí, nguyên nhân phức tạp, hiệu quả điều trị không cao... đã làm hệ thống y tế và cả xã hội bối rối mà chưa biết tháo gỡ từ đâu. Để kiểm soát được tật khúc xạ, điều quan trọng là chúng ta phải nhìn nhận đúng đắn về trục bệnh lý: tật khúc xạ- lác- nhược thị, mối quan hệ nhân quả và những việc cần làm ngay vì lợi ích của trẻ.

Phát hiện sớm bất thường chức năng nhìn của trẻ

Nhìn chung mắt có tật khúc xạ là mắt có thị lực kém và trẻ thường biểu hiện bằng nheo mắt, nghiêng đầu, vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có thể có nhức đầu, nhức mắt... Trong lớp học, trẻ không nhìn rõ trên bảng, hay cúi đầu lại gần sách để nhìn cho rõ, hay chép nhầm bài, đọc nhầm chữ, ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Những trường hợp này cần được phát hiện sớm và có phương hướng điều trị thích hợp.

Chức năng của mắt là giúp cho chúng ta nhìn rõ được những vật ở xung quanh. Mắt bình thường (hay còn gọi là mắt chính thị, mắt không có tật khúc xạ) là mắt có hình ảnh của vật hội tụ đúng trên võng mạc và chỉ khi đó thì vật mới được nhìn rõ. Khi mắt không có khả năng hội tụ một cách chính xác những tia sáng đi từ ngoài vào mắt đúng trên võng mạc thì gọi là mắt có tật khúc xạ. Đây là bệnh rất hay gặp ở trẻ em, cần nhận biết và có biện pháp khắc phục sớm.

Cận thị là mắt có trục nhãn cầu dài hơn bình thường hoặc công suất khúc xạ quá lớn, khi đó hình ảnh của vật rơi vào phía trước của võng mạc. Người bị cận thị nhìn xa mờ nhưng nhìn gần vẫn rõ nhờ vào chức năng điều tiết của mắt trừ khi cận thị quá nặng. Cận thị có thể là bẩm sinh hay mắc phải. Điều chỉnh mắt cận thị là đeo kính phân kỳ để giúp cho ảnh của vật rơi đúng vào võng mạc và khi đó vật sẽ được nhìn rõ.

Viễn thị ngược lại với mắt cận thị là mắt có trục nhãn cầu ngắn hơn bình thường và khi đó hình ảnh của vật rơi vào phía sau của võng mạc. Người bị viễn thị nhìn xa rõ hơn nhìn gần. Điều chỉnh mắt viễn thị bằng đeo kính hội tụ để kéo ảnh của vật về đúng trên võng mạc. Cần lưu ý là mắt viễn thị thường gây nhược thị và có thể là yếu tố gây ra lác điều tiết nên cần phải được phát hiện và điều trị sớm.

Loạn thị là mắt có các kinh tuyến khúc xạ không đều nhau. Vật nhìn không in hình rõ nét trên võng mạc và người bệnh nhìn mờ cả xa và gần. Trẻ bị loạn thị thường nhìn mờ khi nhìn lên bảng hay đọc nhầm chẳng hạn như chữ H đọc thành chữ N, chữ B đọc thành chữ H, chữ I đọc thành chữ T... Loạn thị có thể là đơn thuần hoặc phối hợp với cận thị hay viễn thị. Điều chỉnh mắt loạn thị bằng cách đeo kính trụ.

Lệch khúc xạ là hiện tượng có sự khác nhau về khúc xạ giữa hai mắt có thể là một mắt cận còn mắt kia viễn hoặc cả hai mắt cùng cận hay cùng viễn nhưng khác nhau về mức độ. Đôi khi là một mắt chính thị còn mắt kia là cận thị đơn thuần, viễn thị đơn thuần hay cận loạn hoặc là viễn loạn.

Những trường hợp này cần được phát hiện sớm và đi khám bác sĩ chuyên khoa mắt để có phương hướng điều trị thích hợp. Ngoài ra trẻ phải tuân thủ đầy đủ chế độ vệ sinh học đường như tư thế ngồi học, bàn ghế, bảng đen, ánh sáng phòng học, chế độ giải lao vui chơi và dinh dưỡng hợp lí để không bị mắc phải cận thị học đường hoặc nếu có bị những tật khúc xạ bẩm sinh thì cũng không bị nặng hơn.

 

Đây là mẫu, bạn có thể sửa lại ảnh, màu nền, kích cỡ của bảng tùy theo nhu cầu.

Nhìn nhận đúng về lác mắt

Mắt có tật khúc xạ là mắt có thị lực kém và trẻ thường biểu hiện bằng nheo mắt, nghiêng đầu, vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có thể có nhức đầu, nhức mắt...

Lác mắt là hiện tượng lệch trục nhãn cầu biểu hiện bằng độ lác khi quan sát thấy. Đây không chỉ là vấn đề thẩm mỹ mà còn gây ra nhược thị và rối loạn thị giác hai mắt đi kèm. Lác có thể là lác trong (khi nhãn cầu lệch vào trong), lác ngoài (khi nhãn cầu lệch ra ngoài) hay lác đứng (khi nhãn cầu lệch lên trên hoặc xuống dưới). Khi mắt bị lác, hai mắt sẽ nhìn theo hai hướng khác nhau và sẽ bị nhìn hai hình. Lúc đó não sẽ xoá bỏ hình ảnh của mắt lác ức chế không cho mắt này nhìn và gây ra nhược thị. Vì vậy, người bệnh sẽ mất khả năng nhìn bằng hai mắt đồng thời sẽ không có được thị giác hai mắt. Bất cứ trẻ từ 1 tháng tuổi trở lên xuất hiện lác cần phải coi là nghiêm trọng và phải được đưa đi khám ngay.

Điều trị lác có 3 bước liên quan chặt chẽ với nhau là: điều trị nhược thị, điều trị thẳng trục nhãn cầu để hết lác và điều trị phục hồi thị giác hai mắt. Thời gian điều trị lác càng sớm càng tốt, điều trị sớm không những rút ngắn thời gian điều trị mà còn tăng cường hiệu quả điều trị và nâng cao cơ hội phục hồi thị giác hai mắt. Các phương pháp điều trị khác nhau như: đeo kính, bịt mắt tập chỉnh quang, điều trị bằng thuốc hay phẫu thuật... Ngoài ra, trẻ sau khi điều trị khỏi lác vẫn cần phải theo dõi lâu dài và duy trì kết quả điều trị đã đạt được.

Nhược thị và khiếm thị

Nhược thị là hiện tượng mắt kém ở một hoặc hai bên do các nguyên nhân khác nhau như: lác mắt, do tật khúc xạ hay một số bệnh lí tại mắt. Tuy nhiên nhược thị có thể chữa khỏi hoàn toàn nếu như được phát hiện sớm và điều trị đúng. Các phương pháp điều trị nhược thị có thể là đeo kính, bịt mắt lành, tập chỉnh quang hay phẫu thuật...

Khác với nhược thị, khiếm thị là một tình trạng khiếm khuyết về chức năng của cơ quan thị giác gây ra bởi các bệnh mắt bẩm sinh, di truyền hay mắc phải, do chấn thương mắt trong cuộc sống... mà không thể điều trị khỏi được bằng các phương pháp điều chỉnh khúc xạ, bằng thuốc hay bằng phẫu thuật. Phương pháp điều trị đối với trẻ bị khiếm thị là sử dụng các phương tiện trợ thị thích hợp để giúp cho trẻ có thể tận dụng một cách hữu ích nhất phần thị lực còn lại để có thể hoà nhập với cuộc sống cộng đồng.  

Trong lúc chờ đợi những phương pháp điều trị hiệu quả hơn, triệt để hơn thì việc quan tâm sát sao đến những bất thường thị giác của trẻ, có những hiểu biết nhất định để phối hợp tốt với các bác sĩ mắt khắc phục tật khúc xạ bằng kính thông thường thiết nghĩ vẫn là phương châm tốt cho tất cả mọi người.

 BS. Đỗ Quang Ngọc - BS. Hoàng Cương

Tổn thương da và niêm mạc ở trẻ nhiễm HIV

Tổn thương da là một trong các bệnh lý nhiễm trùng cơ hội hay gặp ở trẻ nhiễm HIV/AIDS. Biểu hiện của tổn thương da có liên quan chặt chẽ với tình trạng suy giảm miễn dịch. Việc chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào biểu hiện lâm sàng và một số xét nghiệm được chỉ định khi cần thiết.

Nhiễm trùng tại chỗ

Biểu hiện của nhiễm trùng tại chỗ là mụn, nhọt ngoài da, chốc, viêm loét, đến viêm cơ, xương. Trẻ có thể có biểu hiện sốt. Các nhiễm trùng tại chỗ này có thể do vi khuẩn (thường do tụ cầu, liên cầu tan huyết), do nấm (Candida, Penicillium marneffei...), do virut (HSV, VZV, HPV) và các loại ký sinh trùng khác như ghẻ, dị ứng, côn trùng.

Việc chẩn đoán và điều trị các nhiễm trùng tại chỗ cũng giống như đối với trẻ không nhiễm HIV. Nếu là vi khuẩn có thể dùng thuốc kháng sinh như amoxiciclin hoặc oxacilin. Nếu do virut (VZV, HPV) dùng thuốc chống virut acyclovir. Dùng đường tiêm hay uống tùy theo mức độ nặng, nhẹ của bệnh.

Chăm sóc trẻ nhiễm HIV tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội số 2 (xã Yên Bài, Ba Vì, Hà Nội). Ảnh:Hải Ninh
Nhiễm nấm Candida

Nhiễm nấm Candida thường có do suy giảm miễn dịch nặng. Bệnh dai dẳng, hay tái phát.

Candida miệng: tạo thành mảng, đám giả mạc trắng, dễ bong ở lưỡi, lợi, trong má, vòm họng. Có thể dùng clotrimazol viên ngậm, miconazol, nystatin đánh lưỡi.

Candida họng, thực quản: có triệu chứng khó nuốt, nuốt đau. Dùng fluconazol trong 2-3 tuần.

Candida da: dát đỏ lan tỏa, đóng vẩy, xung quanh có sẩn vệ tinh, có thể có mụn mủ hay viêm nang lông mủ, hay ở nách, bẹn, quanh móng. Bệnh nấm Candida xâm nhập dùng amphotericin B trong 2 - 3 tuần.

Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng. Nếu điều trị không thuyên giảm soi tươi tìm nấm hoặc soi thực quản. Nuôi cấy để phân loại nếu biểu hiện lâm sàng không điển hình.

Dạng nốt sẩn nổi trên da

Có các triệu chứng toàn thân như sốt cao kéo dài, có biểu hiện thiếu máu; gan, lách, hạch to; sụt cân, xuất hiện khi tế bào CD4 ở ngưỡng suy giảm miễn dịch nặng. Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng. Nguyên nhân do nấm:

Nấm Penicilium marneffei: hay gặp (chiếm 70% bệnh nấm). Có triệu chứng toàn thân. Ban thường nổi trên mặt da có hoại tử đen ở vùng trung tâm, chủ yếu ở đầu, mặt, phần trên thân mình. Tế bào CD4 thường <15%.

 Tổn thương da do zona.

Nấm Cryptococcus neoformans:

ít gặp hơn (chiếm 10% bệnh nấm), thường xuất hiện ở trẻ trên 6 tuổi. Có triệu chứng toàn thân. Ban toàn thân, dạng nốt sẩn, có thể có loét và hoại tử ở trung tâm. Thường có tổn thương viêm màng não hoặc viêm phổi. Tế bào CD4 thường dưới 100/mm3.

Nấm Histoplasma: ít gặp (chiếm 5 - 10% bệnh nấm). Có triệu chứng toàn thân. Hay kèm theo tổn thương phổi, màng não, tiêu chảy. Đôi khi tổn thương da là dát sẩn và ban xuất huyết.

Có thể soi tươi hoặc cấy tổ chức tổn thương tìm nấm. Ngoài ra dạng nốt sẩn nổi trên da còn gặp ở dạng:

U mềm lây: hay gặp, không có triệu chứng toàn thân với các biểu hiện sẩn trong, hình bán cầu lõm giữa, chứa chất bã đậu, không hoại tử, thường ở mặt hoặc sinh dục, ngực, bụng, cánh tay, mông, đùi.

U nhú ở người (bệnh mào gà sinh dục): có u nhú giống súp lơ, màu hồng tươi, mềm, có chân, không đau, dễ chảy máu. Hoặc dạng hạt cơm phẳng rộng hoặc hạt cơm có sẩn sừng dày lên, khu trú ở hậu môn, sinh dục. Không có triệu chứng toàn thân...

Các thuốc điều trị đối với nấm dùng amphotericin B, itraconazol, fluconazol. Đối với u mềm lây dùng phương pháp đốt lạnh hoặc nạo tổn thương. Nếu không có hiệu quả dùng thuốc bôi imiquimod hoặc cidofovir. Liệu pháp ARV có tác dụng phòng và điều trị u mềm lây. Đối với u nhú: bôi podophylin hoặc acid trichloroacetic. Nếu tổn thương ở họng miệng chỉ định đốt lạnh, đốt điện, laser.

Lưu ý: Khi dùng podophyllin chỉ chấm vào tổn thương, không để giây ra da và niêm mạc lành. Sau khi bôi thuốc từ 1- 4 giờ, bệnh nhân phải rửa chỗ bôi thuốc. Sau 4 - 6 tuần không kết quả thì dùng biện pháp đốt.

Ban dạng phỏng nước

Nguyên nhân là do virut trong các bệnh cảnh:

Zona (giời leo) do Herpes zoster (HZV): với biểu hiện phỏng nước, đau rát, ở một bên cơ thể, dọc theo tiết đoạn thần kinh da, thường là vùng liên sườn, ngực, đầu, mặt.

Thủy đậu do Varicella zoster- (VZV): phỏng nước nhiều giai đoạn, khắp cơ thể, khi vỡ để lại vết loét.

Herpes simplex (HSV): nhiều mụn nước, vỡ tạo thành vết loét chợt rồi đóng vẩy, khu trú quanh miệng, hậu môn, sinh dục. Nếu lan đến thực quản gây khó nuốt, nuốt đau, có thể lan đến khí - phế quản. Bệnh hay tái phát và có thể có biến chứng viêm não.

Điều trị: Bôi xanh methylen, milian tại chỗ chống bội nhiễm. Thuốc chống virut tại chỗ ít có hiệu quả, gây kích thích tổn thương. Thuốc toàn thân có tác dụng tốt nhất đối với HZV trong vòng 72 giờ đầu có nốt phỏng. Thể nhẹ, chức năng miễn dịch tốt uống acyclovir trong 7 ngày. Thể nặng, zona lan tỏa tiêm tĩnh mạch acyclovir 7 - 14 ngày. Phòng tái phát 1 lần trở lên trong một tháng dùng acyclovir kéo dài. 

BS. Nguyễn Bích Ngọc

Hạ sốt cho trẻ em

Phát hiện sớm bệnh cong vẹo cột sống

(suckhoedoisong.vn) - Cong vẹo cột sống mức nhẹ thường ít gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu không được điều trị sớm, cong vẹo cột sống có thể tiến triển nặng và gây ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng cuộc sống sau này. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra triệu chứng đau lưng, hạn chế vận động của hệ thống cơ xương.

Cong vẹo cột sống là gì?

Trong giai đoạn phôi thai, cột sống người có hình vòm cong. Sau khi sinh ra, khi trẻ đang còn nằm thì cột sống chuyển từ vòm cong sang thẳng, đến khi trẻ biết ngẩng cao đầu và tập lẫy thì đoạn cổ bắt đầu cong ra phía trước để nâng đầu lên và tạo thành đoạn cong ở cổ. Đến tháng thứ 6, khi trẻ tập ngồi thì cột sống uốn cong ra phía trước ở vùng thắt lưng và cong ra sau ở vùng cùng, cụt để giữ thân mình thẳng đứng. Đến khi trưởng thành, cột sống có 2 đoạn cong uốn về phía  trước là cổ và thắt lưng, 2 đoạn cong uốn về phía sau là ngực và cùng - cụt.

Cột sống có vai trò hết sức quan trọng trong mọi hoạt động sống của con người. Cột sống là trụ cột của cơ thể, là chỗ dựa vững chắc cho các hệ thống cơ quan phát triển, bảo vệ tuỷ sống, giảm sóc cho bộ não. Nhờ có cột sống mà cơ thể có thể vận động linh hoạt, quay sang trái, sang phải, cúi hoặc ưỡn, nhún nhảy một cách dễ dàng, tạo cho cơ thể có nhiều tư thế khác nhau.

Biến dạng cột sống là sự thay đổi về hình dáng hoặc cấu trúc của cột sống so với bình thường. Biến dạng cột sống bao gồm cong cột sống (gù hoặc ưỡn) và vẹo cột sống. Do vậy khi nói về biến dạng cột sống lứa tuổi học đường, người ta thường quen dùng thuật ngữ “Cong vẹo cột sống”.

Cong cột sống là hiện tượng cột sống bị uốn cong quá mức sinh lý bình thường ở đoạn cổ, đoạn ngực hoặc thắt lưng. Khi đoạn cổ bị uốn cong quá mức, đầu sẽ ngả về trước, hai vai chùng xuống và giảm độ cong thắt lưng (tư thế vai so). Nếu đoạn ngực bị uốn cong quá mức về phía sau, lưng tròn, vai thấp, đầu hơi ngả, bụng nhô về phía trước (gọi là tư thế gù). Nếu đoạn thắt lưng bị uốn cong quá mức về phía trước, bụng xệ, phần trên của thân hơi ngả về phía sau (gọi là tư thế ưỡn).

Vẹo cột sống là hiện tượng cột sống bị uốn cong sang bên phải hoặc bên trái. Khi bị vẹo cột sống, nếu đỉnh đường cong hướng về bên phải thì cột sống có hình chữ C ngược, nếu đỉnh đường cong hướng về bên trái thì cột sống có hình chữ C thuận. Nếu cột sống có hai cung uốn cong đối xứng nhau thì nó sẽ có hình chữ S thuận hoặc chữ S ngược (còn gọi là vẹo cột sống bù trừ).

Theo thống kê, vẹo cột sống chiếm khoảng 1- 4% dân số, thường gặp ở nữ nhiều hơn nam và ảnh hưởng nhiều đến trẻ em từ 10-18 tuổi. Cong cột sống thường gặp ở trẻ em 12-15 tuổi.

 Hướng dẫn trẻ ngồi học đúng tư thế.
Nhận biết như thế nào?

Trong trường hợp bị vẹo cột sống, có thể nhìn thấy những bất thường như: các gai đốt sống không thẳng hàng; hai vai dốc không đều, bên cao bên thấp; xương bả vai nhô ra, khoảng cách từ 2 mỏm xương bả vai đến gai đốt sống không bằng nhau; hai tam giác eo tạo ra giữa cánh tay và thân không đều nhau, bên rộng bên hẹp; mào chậu bên thấp bên cao; hai thăn lưng mất cân đối hoặc có ụ lồi do cột sống bị xoáy vặn, xương sườn lồi lên.

Nếu bị gù thì quan sát thấy lưng tròn, vai thấp, bụng nhô, đầu ngả ra phía trước. Nếu bị ưỡn, phần trên của thân hơi ngả về phía sau, bụng xệ xuống.

Có nhiều nguyên nhân gây ra cong vẹo cột sống. Một số trẻ em sinh ra đã bị cong hoặc vẹo cột sống bẩm sinh. Một số trẻ em bị cong vẹo cột sống do ngồi, đi đứng quá sớm hoặc bị mắc các bệnh về thần kinh, bệnh cơ, bị chấn thương, thể trạng kém vì ít hoạt động thể thao, suy dinh dưỡng (còi xương), cường độ lao động không thích hợp với lứa tuổi. Nhiều trường hợp không xác định được nguyên nhân dẫn đến cong vẹo cột sống.

Cong vẹo cột sống ở tuổi học sinh có thể phát sinh do ngồi sai tư thế vì bàn ghế không phù hợp với chiều cao của học sinh, chiếu sáng bàn học kém, mang cặp sách quá nặng về một bên vai.

Tác hại của cong vẹo cột sống

Cong vẹo cột sống mức nhẹ thường ít gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu không được điều trị sớm, cong vẹo cột sống có thể tiến triển nặng và gây ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng cuộc sống sau này. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra triệu chứng đau lưng, hạn chế vận động của hệ thống cơ xương.

Trường hợp bệnh nặng có thể gây rối loạn tư thế, dị dạng thân hình, tác động xấu đến tâm lý của trẻ, hạn chế khả năng hòa nhập cộng đồng; ảnh hưởng đến chức năng của tim, phổi (giảm dung tích sống của phổi); gây biến dạng xương chậu, ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của trẻ em nữ khi trưởng thành.

Chi phí điều trị cho các bệnh nhân bị cong vẹo cột sống rất tốn kém, đặc biệt là những bệnh nhân cần phải phẫu thuật chỉnh hình.

Và phòng ngừa?

Để phòng ngừa cong vẹo cột sống trước hết cần phải nâng cao sức khỏe chung của cơ thể bằng cách rèn luyện thể dục thể thao cho các bắp thịt, các tổ chức liên kết, dây chằng các khớp khỏe, làm tăng sự dẻo dai bền bỉ và phát triển cân đối.

Cần phòng chống suy dinh dưỡng, còi xương ở trẻ nhỏ. Chế độ ăn cần có đủ protein, chất khoáng và vitamin.

Bàn ghế ngồi học phải phù hợp với lứa tuổi và tư thế ngồi học phải đúng.

Nơi học tập ở trường phải đảm bảo chiếu sáng tự nhiên và chiếu sáng nhân tạo. Ở nhà, ngoài hệ thống chiếu sáng chung, gia đình cũng cần trang bị đèn ở góc học tập cho các em học sinh để đảm bảo ánh sáng tốt hơn. Cần thực hiện giờ nghỉ giải lao giữa các tiết học.

Học sinh không mang cặp quá nặng, trọng lượng cặp sách không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể. Cặp phải có hai quai, khi sử dụng học sinh đeo đều hai vai, tránh đeo lệch về một phía.

Học sinh cần được khám cột sống định kỳ nhằm phát hiện sớm các trường hợp cong vẹo cột sống để có thể có cách xử trí và điều trị kịp thời.

ThS. Lỗ Văn Tùng

Như một món quà đầu đời tặng trẻ!

BV. Từ Dũ (TP.HCM) vừa tổng kết đánh dấu mốc 10 năm chương trình sàng lọc trước sinh và sơ sinh (SLTS &SS). Hàng ngàn cháu bé đã được chẩn đoán, sàng lọc dị tật để chào đời khỏe mạnh. Sức khỏe & đời sống đã có cuộc trao đổi với ThS. BS. Phùng Như Toàn, Trưởng khoa Xét Nghiệm  Di truyền Y học BV. Từ Dũ, về chương trình ý nghĩa này.

 
- Phóng viên:Thưa bác sĩ, những dị tật gì có thể tránh và khắc phục được nhờ sàng lọc trước sinh (SLTS) và sàng lọc sơ sinh (SLSS)? Điều này có ý nghĩa như thế nào đối với gia đình và xã hội?

ThS.BS. Phùng Như Toàn: Có thể nói mục đích cuối cùng của BS sản khoa trong vấn đề chăm sóc sức khỏe của thai phụ là muốn đánh giá trước khi bé chào đời những bệnh lý có thể chẩn đoán được. Đó là những bệnh lý ở cấp độ gen, nhiễm sắc thể có thể gây hậu quả nặng nề là dị tật bẩm sinh cho thai nhi, làm cho thai nhi có sức sống kém, có thể tử vong sau sinh hoặc sinh ra bị chậm phát triển thể chất, tâm thần vận động. Đó là trước sinh, còn SLSS, đối với những bệnh lý mà trong bào thai không thể chẩn đoán được như những rối loạn nội tiết, rối loạn về dị tật bẩm sinh, những bệnh lý về rối loạn chuyển hóa thì phải đợi sau sinh mới đánh giá được. Thế giới đã triển khai kỹ thuật này từ những năm 1960 tại nhiều nước và tầm soát hàng loạt bệnh cho em bé bằng kỹ thuật lấy giọt máu khô (áp dụng cho 6 - 15 bệnh). Những bệnh lý có thể phát hiện được qua sàng lọc ở ta hiện có bệnh Down, hội chứng Edwards, dị tật ống thần kinh, suy giáp bẩm sinh, thiếu men G6PD, tăng sản tuyến thượng thận và Thalassemia thể nặng…

- Phóng viên: Hơn mười năm triển khai những kỹ thuật này, đã có bao nhiêu ca được thực hiện tại BV. Từ Dũ?

ThS.BS. Phùng Như Toàn: BV. Từ Dũ đã quyết định trang bị máy móc, thiết bị và cử cán bộ đi học tập kinh nghiệm ở nước ngoài và sau đó thành lập Trung tâm tiền sản năm 1999 để thực hiện các kỹ thuật chẩn  đoán trước sinh. Còn với các bệnh lý sơ sinh, đến năm 2002 bệnh viện cũng đã triển khai sàng lọc. Chỉ trong vòng 5 năm (từ 2002 - 2006), đã có trên 150.000 trẻ sinh tại BV. Từ Dũ đã được tiến hành SLSS. 5 năm sau đó, thêm bệnh lý tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh được đưa vào danh mục bệnh SLSS. Tổng cộng lại, có khoảng 300.000 trẻ sinh tại bệnh viện đã được sàng lọc.

-Phóng viên:Quy trình SLTS &SS hiện nay được tiến hành như thế nào, thưa BS?

ThS.BS. Phùng Như Toàn: Quy trình kỹ thuật thì rất đơn giản, chỉ cần lấy 2 giọt máu gót chân của trẻ sau 48 giờ sinh (nếu sơ sinh non tháng, nhẹ cân thì lấy mẫu khi trẻ đủ 7 ngày tuổi) là có thể tiến hành các xét nghiệm phân tích được 2 bệnh lý là thiếu men G6PD (qua đó, cha mẹ trẻ sẽ được tư vấn tránh các loại thực phẩm hay thuốc tây ảnh hưởng dễ gây vỡ hồng cầu, vàng da…) và suy giáp bẩm sinh. Với bệnh lý này, nếu phát hiện, trẻ sẽ được tham vấn và điều trị hiệu quả, triệt để tại BV. Nhi Đồng 1, TP.HCM, để có thể phát triển bình thường về thể chất và trí tuệ.

- Phóng viên:Hiện nay nhiều bà mẹ mang thai vẫn chưa biết hoặc chủ quan với việc khám thai định kỳ cũng như SLTS & SS. Chúng ta cần làm gì để có thể thay đổi điều nàỵ?

ThS.BS. Phùng Như Toàn: Cứ hình dung thế này, nếu chúng ta bỏ ra một đồng để làm SLTS&SS thì chúng ta sẽ lời 5 đồng khi không phải điều trị bệnh cho trẻ. Lợi ích lớn hơn, đó là những đứa trẻ sinh ra và lớn lên thông minh, khỏe mạnh, không dị tật và là nền tảng phát triển quốc gia. Do vậy, ngoài cố gắng về chuyên môn và tuyên truyền của ngành y tế, Tổng cục dân số, Chi cục dân số và các CTV dân số các tỉnh trong trong các dự án về SLSS đang triển khai thì vai trò của truyền thông của báo, đài cũng có vai trò quan trọng để tuyên truyền và thay đổi nhận thức cũng như hành vi của các thai phụ sắp và đang làm mẹ. Việc SLTS & SS sẽ giúp loại bỏ được 95% những dị tật bất thường và cho ra đời những đứa trẻ khỏe mạnh. Đây như một món quà đầy ý nghĩa mà các bậc cha mẹ tặng con cái lúc đầu đời vậy!

 - Phóng viên: Với ý nghĩa lớn lao của SLTS & SS thì  “độ phủ” càng rộng càng tốt. Vậy kỹ thuật này có thể chuyển giao rộng rãi cho tuyến dưới áp dụng được không,  thưa BS?

ThS.BS. Phùng Như Toàn: Hiện, sàng lọc sơ sinh từ một kỹ thuật được triển khai đầu tiên ở BV. Từ Dũ đã trở thành một chương trình mục tiêu quốc gia. Năm 2006, Bộ Y tế đã chỉ đạo 2 bệnh viện đầu ngành về phụ sản ở phía Bắc và phía Nam là BV. Phụ sản TW và BV. Từ Dũ ngồi lại với Tổng cục Dân số để viết một đề án thử nghiệm đưa vào thí điểm thực hiện kỹ thuật SLSS tại 12 địa phương tại phía Bắc và 12 tỉnh thành tại phía Nam do 2 bệnh viện trên chịu trách nhiệm phụ trách. Từ đó, việc tuyên truyền, vận động cho cộng đồng được đẩy mạnh. Song song đó, việc mở lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ y tế và kỹ thuật viên tại các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện về kỹ thuật lấy máu gót chân để gửi về BV. Từ Dũ làm xét nghiệm. Đề án đang triển khai tại phía Nam của BV. Từ Dũ hiện đã mở rộng ra 20 tỉnh như Đồng Nai, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bà Rịa - Vũng Tàu… và mỗi năm sàng lọc cho trên 80.000 trẻ (tập trung vào 2 bệnh thiếu men G6PD và suy giáp) và dự kiến con số này sẽ còn tăng lên trong thời gian tới. Hiện các bệnh viện tư như FV, Vũ Anh, Phụ sản quốc tế Sài Gòn cũng đang triển khai các kỹ thuật này. Với tuyến dưới, nếu được đầu tư máy móc, trang thiết bị và đào tạo con người thì hoàn toàn có thể thực hiện được kỹ thuật này. Khi đó, BV. Từ Dũ với vai trò là labo trung tâm sẽ hỗ trợ để các địa phương xây dựng labo chuẩn và tập huấn, chuyển giao kỹ thuật để cán bộ tuyến dưới đủ khả năng làm SLSL để không phải gửi mẫu về BV Từ Dũ như hiện nay nữa.

- Phóng viên: Xin cảm ơn BS về cuộc trao đổi này!

TU N NGUYỄN(thực hiện)

Phòng ngừa bệnh quai bị lứa tuổi học đường

(suckhoedoisong.vn) - Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai dịch tễ hay viêm tuyến nước bọt mang tai do virus quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính hay gặp ở lứa tuổi học đường, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên.

Biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hoá mủ. Ngoài ra các tuyến nước bọt khác, tinh hoàn, tụy và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.

Virus quai bị có tên khoa học là Mumpsvirus thuộc họ Paramyxovirus. Có hướng tính gây bệnh với các tuyến ngoại tiết và thần kinh. Virus quai bị có sức đề kháng kém, bị bất hoạt nhanh khi ra ánh nắng mặt trời và trong điều kiện khô nóng, nhưng có thể tồn tại lâu ở nhiệt độ thấp. Nguồn bệnh là những người đang mắc quai bị cấp tính. Bệnh lây trực tiếp bằng đường hô hấp qua tiếp xúc giữa người bệnh và người lành. Thời gian lây bệnh từ 7 ngày trước đến 7 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên của bệnh. Bệnh gặp khắp nơi trên thế giới và có thể xảy ra quanh năm nhưng thường  thành dịch vào mùa Đông - Xuân. Bệnh thường xảy ra ở thanh, thiếu niên sinh hoạt tập thể: Mẫu giáo, trường học, đơn vị tân binh.

Tất cả những người chưa mắc quai bị đều có thể mắc bệnh, thường ở tuổi thanh thiếu niên. Trẻ dưới 2 tuổi và người già rất hiếm bị bệnh. Sau khi mắc bệnh, bệnh nhân có miễn dịch vững bền tồn tại rất nhiều năm, có thể tái phát, nhưng rất hiếm. Miễn dịch mẹ truyền cho con tồn tại khoảng 1 năm.

Các thể lâm sàng

Các thể bệnh thường được phân loại theo vị trí tổn thương, gồm các thể sau: thể viêm tuyến nước bọt (tuyến mang tai, dưới hàm, dưới lưỡi);  thể viêm tinh hoàn; thể viêm tụy; thể thần kinh (viêm màng não, viêm não); thể kết hợp (viêm tuyến nước bọt mang tai kết hợp với viêm tinh hoàn, hoặc viêm tuyến nước bọt mang tai với viêm màng não) v. v...

Viêm tuyến nước bọt mang tai: là thể điển hình hay gặp nhất, chiếm 70% các thể có khu trú rõ. Thời gian nung bệnh trung bình từ 18 - 21 ngày.

 Khởi phát bệnh người bệnh sẽ bị sốt 38 - 39oC, đau đầu, đau mỏi toàn thân, ăn ngủ kém.

 Giai đoạn toàn phát: sau sốt 24 - 48 giờ xuất hiện viêm tuyến mang tai. Lúc đầu sưng một bên, sau 1 - 2 ngày sưng tiếp bên kia (thường sưng cả hai bên, ít gặp sưng chỉ một bên). Hai bên sưng thường không đối xứng (bên sưng to, bên sưng nhỏ), tuyến mang tai sưng to đôi khi làm mất rãnh trước và sau tai, có khi biến dạng mặt, mặt phình ra, cổ bạnh, cằm xệ. Da vùng má  bị sưng căng, bóng, không đỏ, ấn không lõm, sờ nóng, đau, nước bọt ít, quánh.

Giai đoạn lui bệnh: Bệnh tự khỏi trong vòng 10 ngày. Thường hết sốt sau 3 - 4 ngày, tuyến hết sưng trong vòng 8 - 10 ngày, hạch sưng kéo dài hơn tuyến một chút. Tuyến nước bọt không bao giờ hoá mủ (trừ khi bội nhiễm vi khuẩn) và cũng không bao giờ bị teo.

Viêm tinh hoàn: là thể thường gặp thứ hai sau viêm tuyến nước bọt mang tai. Hay gặp ở nam giới đang tuổi dậy thì hoặc đã trưởng thành (khoảng 10% - 30% số mắc bệnh quai bị). Viêm tinh hoàn thường bị một bên, ít gặp cả hai bên. Khi bị cả hai bên thì cũng sưng cách nhau 2 - 3 ngày, thường xuất hiện sau viêm tuyến nước bọt và khi các triệu chứng viêm tuyến nước bọt đã dịu đi. Thường vào ngày thứ 5 đến thứ 10 của bệnh thấy sốt xuất hiện trở lại hoặc sốt tăng lên. Có thể buồn nôn, nôn. Tinh hoàn đau, nhất là khi đi lại và to gấp 2-3 lần bình thường, sờ thấy chắc, da bìu có thể nề, căng đỏ. Trong những trường hợp nặng có thể kèm thêm viêm thừng tinh, viêm mào tinh hoàn và tràn dịch màng tinh hoàn. Thường hết sốt sau 3 - 5 ngày. Tinh hoàn giảm sưng từ từ, có thể 3 - 4 tuần sau tinh hoàn mới hết sưng đau (với thể nặng) và không bao giờ có mủ.

Tinh hoàn có bị teo hay không phải đợi khoảng hai tháng sau mới biết chắc (tỷ lệ teo tinh hoàn khoảng 5/1000), chứng vô tinh trùng rất hiếm. Chức năng nội tiết thường không bị ảnh hưởng. Theo kinh điển nếu teo tinh hoàn có thể gây các tình trạng như: Không có tinh trùng, vô sinh, chậm lớn, mất nam tính và liệt dương. Ngày nay, qua theo dõi nhiều năm, đa số các tác giả thấy rằng: Nếu teo một tinh hoàn sẽ không có ảnh hưởng gì, bên lành sẽ hoạt động bù trừ, khi bị teo cả hai bên hoặc ở người chỉ có một tinh hoàn thì tỷ lệ bị ảnh hưởng hoạt động sinh dục và vô sinh cũng thấp.

Ngoài ra có thể gặp thể viêm buồng trứng, viêm màng não, viêm não, viêm cơ tim, tuy nhiên ít gặp trên lâm sàng.

Nhìn chung, quai bị là bệnh lành tính. Hãn hữu có thể có tử vong do viêm não, viêm cơ tim, viêm tuỵ. Tuy nhiên, cần chú ý phụ nữ có thai bị quai bị có thể bị sảy thai, đẻ non, ở nam giới tuổi trưởng thành nếu viêm tinh hoàn nặng cả hai bên có thể dẫn đến vô sinh.

Điều trị như thế nào?

Hiện nay, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, điều trị chủ yếu là nâng đỡ, tăng cường dinh dưỡng, điều trị triệu chứng. Phát hiện sớm các biến chứng như viêm tinh hoàn, viêm màng não... Điều trị cụ thể với thể viêm tuyến mang tai: xúc miệng bằng nước muối 0,9%, dung dịch axit boric 5%, hạ sốt nếu sốt quá cao, có thể dùng giảm đau (paracetamol), an thần nhẹ  (rotunda), dùng các vitamin nhóm B, C, uống nước chanh, cam, ăn lỏng. Nằm nghỉ tại giường, hạn chế đi lại, trong thời gian còn sốt, còn sưng tuyến (thường là 7 - 8 ngày đầu). Cách ly tối thiểu 10 ngày. Còn với thể viêm tinh hoàn, bệnh nhân phải được nằm nghỉ tại giường khi còn sưng đau, mặc quần sịp để treo tinh hoàn; giảm đau bằng cách chườm đá, uống paracetamol,  dùng 3 - 4 ngày, giảm viêm bằng thuốc cortanxy, dùng 3 - 4 ngày. Sau khi tinh hoàn đỡ sưng đau có thể dùng vitamin E từ 1 - 2 tháng để tăng sinh tinh trùng.

Nếu bệnh nhân chỉ có sưng đau tuyến nước bọt mang tai đơn thuần có thể điều trị ngoại trú theo đơn của bác sĩ. Khi đã sưng cả tuyến dưới hàm, dưới lưỡi gây khó nuốt, khó thở hay viêm tinh hoàn thì phải nhập viện điều trị  ngay.

Dự phòng

- Tuyên truyền cho cộng đồng biết các dấu hiệu của bệnh, giáo dục cách phòng bệnh như: cải thiện chế độ dinh dưỡng, tăng cường sức đề kháng của cơ thể, giữ gìn vệ sinh thân thể, đặc biệt đường hô hấp.

- Khi có trẻ bị bệnh phải cho nghỉ tại nhà để cách ly 10 - 21 ngày (thường là 10 ngày) để tránh lây lan cho các cháu khác.

- Tiêm phòng vaccin quai bị: đây là loại vaccin sống giảm độc lực. Vaccin có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp các vaccin khác như vaccin tam liên MMR (Measles-mump-rubella) ngừa bệnh sởi, quai bị và sởi Đức (Rubella).

Khuyến cáo sử dụng vaccin: Trẻ 12 đến 14 tháng tuổi nên được tiêm ngừa mũi vaccin tam liên MMR, liều thứ 2 nhắc lại khi trẻ được 4 đến 6 tuổi.

Tiêm chủng quai bị rất quan trọng ở những trẻ dậy thì, thiếu niên và người trưởng thành chưa có miễn dịch chống quai bị.

Phụ nữ có thai bị bệnh nếu có điều kiện tiêm globulin miễn dịch đặc hiệu, dùng 1 liều duy nhất.

BS. Đỗ Thị Lệ Quyên

Khi trẻ bị sốt phải làm gì?

(suckhoedoisong.vn) - Sốt là một  triệu chứng thường hay gặp nhất ở trẻ em và là một  trong những nguyên nhân hàng đầu khiến phụ huynh lo lắng. Bình thường thân nhiệt ở trẻ dao động từ 36,8 độ C đến 37,3 độ C. Nhiệt độ buổi chiều thường tăng hơn buổi sáng khoảng nửa độ. Gọi là sốt khi trẻ có nhiệt độ trên 38 độ C (đo nhiệt độ hậu môn hoặc ở tai là chính xác, ở nách thì cộng thêm 0,5 độ nữa). Sốt cao có thể từ 39 đến 40 độ C. Trên 40,5 độ thì xem như một cấp cứu đối với trẻ vì dễ đưa đến co giật. Tuy nhiên ở nhiều trẻ có tiền căn co giật thì ngưỡng sốt gây co giật có thể thấp hơn, có thể chỉ cần sốt dưới 38 độ C là đã có nguy cơ gây co giật.

Làm gì khi trẻ bị sốt

Khi trẻ sốt cần phải cởi bớt quần áo bé ra, lau bằng nước ấm, nhất là vị trí ở nách, bẹn, đầu. Sau khi lau nước cần thay đồ cho bé bằng quần áo thoáng nhẹ vải cotton. Sau nửa giờ cặp nhiệt lại, nếu nhiệt độ chưa xuống thì cho bé uống hạ sốt theo chỉ định của bác sĩ.

Không nên ủ ấm bé và cũng  không nên chườm nước đá lạnh khi bé đang sốt (vì nếu chườm lạnh thì mạch sẽ bị co lại, khó thoát nhiệt hơn). Không được nghe theo lời mách bảo để hạ sốt cho bé như: dùng rượu hay chanh để chà xát lau cho bé, dễ gây  ngộ độc và dễ tổn thương da .

Bé bị sốt cần uống nước nhiều vì sốt thường mất nhiều nước qua mồ hôi và hô hấp, nếu uống nước ít sốt sẽ khó hạ. Sau khi đã qua cơn sốt cho bé ăn nhẹ kịp thời thức ăn lỏng dễ tiêu như (cháo loãng, súp,…) và tăng lên từ từ. Đối với trẻ  còn bú mẹ thì vẫn cho bú theo nhu cầu.

Theo dõi các dấu hiệu đi kèm sốt là việc quan trọng để tìm ra nguyên nhân gây sốt và lưu ý những dấu hiệu nặng của trẻ để đưa đến cơ sở gần nhất. Không tự ý dùng thuốc kháng sinh khi không có chỉ định của bác sĩ. 

Khi nào cần cấp cứu 

Sau khi áp dụng các biện pháp hạ nhiệt, uống thuốc hạ sốt mà nhiệt độ của bé không hạ, nhất là trong một số trường trường hợp sốt kèm theo các triệu chứng nguy hiểm khác như: nôn ói, thở khò khè, thở mệt, giật mình hoảng hốt, lạnh tay lạnh chân v.v… hoặc bé sốt cao liên tục 2, 3 ngày, sốt tái đi tái lại kéo dài hơn 1 tuần. Cần cho trẻ đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được khám và điều trị. Riêng trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi khi bị sốt, nhất thiết phải đi khám bác sĩ để tìm nguyên nhân và điều trị kịp thời. 

  Bác sĩ CK2 Nguyễn Thị Thanh

Sâu róm

Trong mùa sinh trưởng, phát triển của các loài sâu bọ, trẻ em đi chơi ngoài dã ngoại, ngoài vườn rất dễ bị sâu đốt. Có một số trường hợp trẻ bị sốc phản vệ nặng vì đụng phải sâu róm khi trẻ tìm bắt chơi hoặc vô tình bị sâu rơi, bám vào người. Người dân cần biết cách phòng tránh và xử trí thích hợp trong tình huống này để tránh biến chứng nặng cho trẻ.

Nguy cơ gây ngộ độc

Sâu róm có hình dạng cơ thể giống như con giun nhưng màu sắc sặc sỡ, chi tiết lạ, có gai và lông để ngụy trang và tự vệ. Khi bị chạm vào, chúng xù lên những chùm lông hoặc gai để tấn công. Gai sâu có dạng đầu nhọn hoặc phân nhánh, có thể gây độc trực tiếp hoặc nối với hạch chứa nọc độc ở chân. Những cái lông chích của sâu róm trông giống như sợi thủy tinh có thể tự gãy rời khỏi thân sâu, bám trên da người và gây triệu chứng ngộ độc. Lông sâu trên da không bị thoái biến đi mà mắc lại suốt cả năm sau khi bị ngộ độc, gây ra những cơn đau bất chợt trong suốt thời gian này, đặc biệt nguy hiểm khi ở mắt.

 Rửa sạch da bằng nước sạch và xà phòng khi bị sâu đốt. Ảnh: TL
Đáng lưu ý là sâu róm có thể gây bệnh cảnh nặng, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Hiện người ta chưa biết nhiều về thành phần nọc độc của sâu róm, vì có quá nhiều loài mà nọc độc của mỗi loài này đều khác nhau nên gây khó khăn cho việc nghiên cứu. Các độc tố đã được phát hiện có tính chất không bền với nhiệt độ cho thấy bản chất chúng là protein hoặc polypeptide. Người ta cũng tìm thấy histamin và serotonin trong thành phần độc tố của một số loài sâu róm. Điều này giải thích nguy cơ phản ứng dị ứng nặng có thể xuất hiện.

Xử trí khi bị sâu đốt

Điều quan trọng là loại cần loại bỏ chất độc và làm dịu triệu chứng. Khi bị sâu bám nên cẩn thận dùng que để lấy sâu ra, phủi sạch các lông gai thấy được, dùng băng dính dán lên vùng da tiếp xúc với sâu róm để lấy sạch các lông nằm sâu, còn sót lại. Sau đó nhẹ nhàng rửa sạch da bằng nhiều nước và xà phòng. Đắp lạnh để làm giảm sưng và giảm đau. Đối với gai mắc ở hầu họng và thực quản phải dùng thuốc tê cho bệnh nhân mới có thể lấy gai ra được.

Không có thuốc giải độc cho các trường hợp ngộ độc do sâu róm. Do vậy, các biện pháp điều trị tiếp sau đó là dùng thuốc giảm đau, giảm ngứa và làm dịu phát ban da bằng thuốc kháng histamine hoặc corticoid. Những trẻ ngộ độc nặng bị hạ huyết áp phải được xử trí cấp cứu tiêm adrenaline và truyền dịch kịp thời.

Phòng tránh thế nào?

Sâu róm tăng trưởng trong một  khoảng thời gian nhất định trong năm, chúng có số lượng lớn vào mùa sinh trưởng và có năm số lượng sâu nhiều hơn những năm khác. Trẻ em cần được cảnh báo mối nguy hiểm gặp sâu vào những thời điểm này. Do vậy, nên cho trẻ mặc áo dài tay và đội nón rộng vành khi đi chơi  ngoài vườn, nơi có cây cảnh. Dạy trẻ không chơi bắt sâu, không sờ vào sâu ngay cả khi chúng đã chết vì vẫn có độc tố như lúc sâu còn sống. Cũng phải nhớ lông sâu róm có thể phát tán trong không khí gây dị ứng ở một số người nên vào mùa sâu róm lưu ý đóng cửa sổ, cửa ra vào và phải vệ sinh các máy điều hòa nhiệt độ có chức năng mang không khí từ bên ngoài vào nhà. Không treo áo quần ngoài vườn vì lông sâu róm có thể dính vào.

BS. Hạnh Trinh

Những bệnh tiêu hóa thường gặp ở trẻ nhỏ

Trẻ nhỏ dễ mắc phải những căn bệnh về đường tiêu hóa, trong đó có một số bệnh thường gặp dưới đây, do các chuyên gia Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC) tư vấn kèm theo những khuyến cáo về phòng ngừa.

1. Táo bón

Do hệ thống tiêu hóa còn non trẻ lại đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện nên trẻ dễ mắc bệnh táo bón. Bệnh táo bón trẻ em là căn bệnh rối loạn tiêu hóa, làm cho các bậc cha mẹ lo lắng. Trẻ bị táo bón thường có dấu hiệu khó đại tiện, đau khi đi đại tiện, chất thải cứng và khô. Theo nghiên cứu thì nguyên nhân gây táo bón là do thiếu chất xơ trong chế độ dinh dưỡng, do tác dụng phụ của các loại thuốc chữa bệnh, do viêm nhiễm, do thiếu nước... Ngoài ra còn do yếu tố thần kinh. Ví dụ rối loạn cảm xúc, sợ sệt, stress cao cũng là nguyên nhân dễ gây bệnh.

Giải pháp: khi trẻ còn nhỏ nên cho trẻ uống nhiều nước nhưng không cho uống nước sô-đa, nước ngọt, nên dùng nước hoa quả pha loãng với sữa, tăng lượng chất xơ trong chế độ ăn uống hàng ngày, nên cung cấp đủ dưỡng chất trong chế độ ăn uống hàng ngày. Nên đưa trẻ đi khám bác sĩ, không nên tự mua thuốc về dùng để hạn chế những sự cố không mong muốn có thể xảy ra.

2. Bệnh tiêu chảy

Trẻ thường mắc phải bệnh tiêu chảy, đặc biệt là bệnh tiêu chảy cấp, tiêu chảy kéo dài. Nguyên nhân là do viêm nhiễm virút hoặc vi khuẩn. Bệnh tiêu chảy có thể là cấp tính hoặc mạn tính, được xác định là đi đại tiện trên 3 lần/ngày kéo theo dấu hiệu đau bụng, buồn nôn, đầy hơi, mất nước. Ở thể cấp tính các triệu chứng thường kéo dài 1 - 2 ngày, còn ở dạng mạn tính thì ít nguy hiểm nhưng lại kéo dài hơn.

Giải pháp: tuy bị tiêu chảy nhưng hệ thống tiêu hóa vẫn hấp thụ nước bình thường vì vậy nên cho trẻ uống đủ nước, nhất là dùng dung dịch ORS (Oresol), gói hydrite pha dung dịch này theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu nước pha 12 giờ không dùng hết nên bỏ đi. Nếu số lần tiêu chảy 2 - 3 lần/ngày có thể bù nước bằng nước thông thường hoặc nước ép trái cây và ăn uống đủ 4 nhóm thực phẩm là chất bột, chất béo, đạm và rau, cho trẻ ăn thịt nhiều mỡ, nên dùng sữa không có đường lactose theo khuyến cáo của bác sĩ.

Phòng ngừa: nên ăn chín uống sôi, dùng nguồn nước sạch, rửa tay sạch khi chăm sóc bé, không cho trẻ tiếp xúc với người đang mắc bệnh tiêu chảy, không sử dụng thuốc kháng sinh bừa bãi. Nếu ở thể nặng nên đưa trẻ đi khám và điều trị theo phác đồ của bác sĩ.

3. Bệnh IBS

Bệnh IBS (Irritable Bowel Syndrome) là Hội chứng ruột kích thích, xuất hiện những dấu hiệu bất thường của đường ruột, còn có tên gọi khác là đau dạ dày thần kinh hoặc đại tràng co thắt,  nhưng nó lại không ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Đến nay khoa học vẫn chưa rõ nguyên nhân nên việc điều trị còn hạn chế, mới chỉ tình nghi đến thực phẩm như sữa, cà phê, thức ăn nhiều mỡ đặc biệt là thức ăn nhanh, gia vị cay nóng. Hội chứng IBS thường có ít nhất hai triệu chứng như đau bụng, đi ngoài, hoặc đau bụng khó chịu kèm theo táo bón. Do không có phương pháp xét nghiệm cụ thể nên người ta thường thử máu, thử phân, siêu âm, chiếu chụp X-quang để chẩn đoán các chứng bệnh khác về đường ruột. Do không cần điều trị nên hội chứng IBS có thể phòng ngừa để giảm bệnh như thay đổi chế độ ăn uống, cho trẻ ăn nhiều bữa, tránh dùng chất kích thích, cay nóng, duy trì cuộc sống không stress, giúp trẻ giảm áp lực trong môi trường sống, duy trì cuộc sống vận động. Tuy bệnh không đe dọa đến tính mạng nhưng cũng nên đưa trẻ đi khám để biết cụ thể nguyên nhân và điều trị đồng thời những căn bệnh mà trẻ mắc phải.

4. Hội chứng nôn ói theo chu kỳ

Hội chứng nôn ói theo chu kỳ ở trẻ em (CVS) là căn bệnh kỳ lạ mà đến nay khoa học vẫn chưa hiểu hết nguyên nhân. Nó được mô tả là nôn ói đột ngột kéo dài vài giờ cho đến vài ngày và sau đó lại tái phát. Đặc tính và thời gian của từng chu kỳ nôn ói này rất giống nhau. Tại Anh có một bé gái tên là Alisha Atkinson mắc phải hội chứng CVS rất nghiêm trọng từ năm lên 6 tuổi, mỗi ngày nôn ói đến vài chục lần. Do chưa tìm được nguyên nhân nên người ta mới chỉ kê đơn để kiểm soát việc nôn ói. Ngoài ra, bác sĩ khuyên những người mắc bệnh cần được nghỉ ngơi, ngủ đủ, ăn uống đủ chất và hạn chế gây căng thẳng.

Nôn ói thường gặp trong rối loạn tiêu hóa ở trẻ nhỏ

5. Bệnh GERD

GERD (Gastrooesophageal Reflux Disease) là bệnh trào ngược dạ dày - thực quản hay còn gọi là chứng ợ nóng, ợ chua. Đặc thù của bệnh là thực quản bị viêm tấy dưới tác động của acid từ dạ dày đưa lên. Dạ dày là nơi sản xuất ra acid clohydric (HCL) để làm nhiệm vụ tiêu hóa thực ăn. Các cơ  thực quản làm nhiệm vụ co giãn để ngăn không cho thức ăn trào ngược nhưng ở những người mắc bệnh cơ thực quản không làm đúng chức năng nên acid trào ra  gây tổn thương lớp niêm mạc của thực quản. Rất nhiều nguyên nhân gây bệnh GERD nhưng chủ yếu vẫn là do ăn uống, ăn quá nhiều trước khi đi ngủ, mắc bệnh thoát vị hoành do stress hoặc cả những nguyên nhân khoa học chưa biết  hết. Chứng ợ chua có thể kéo dài tới 2 giờ, gây cảm giác đau rát ở giữa ngực, xuống ức, ợ ra mùi đắng trong khi ngủ hoặc khi cười nói và gây khó thở.

Giải pháp: nên duy trì ăn uống khoa học, nếu bệnh nặng cần đi khám bác sĩ, tư vấn và điều trị để khỏi gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tương lai của trẻ.

KHẮC HÙNG (Theo BC)


Tiêm chủng

Ban nhiệt mùa nóng

Ban nhiệt là tổn thương da phổ biến ở trẻ em vào mùa hè. Thống kê cho thấy, khi thời tiết nóng bức như hiện nay cứ 10 trẻ đã có 2-3 trẻ nổi ban nhiệt.

Bệnh xảy ra ở mọi tuổi nhưng thường gặp ở những trẻ nhỏ được ủ kỹ, trẻ sơ sinh nằm than, trẻ năng động chạy nhảy nhiều. Đáng lưu ý là người nhà thường tự điều trị theo kinh nghiệm như đắp lá cây giã, đắp đậu xanh nhai nát, bôi nhớt gà, kiêng nước, cữ tắm... làm bệnh lâu lành, thậm chí có biến chứng nguy hiểm.

Trị ban nhiệt bằng đắp lá cây  

Bé trai Võ Tuấn B.M., 6 tháng tuổi, nhà ở Tiền Giang, nhập bệnh viện Nhi Đồng 1 vì sốt cao, da nhiều mụn mủ. Bé bị nổi ban nhiệt ở da đã 3 tuần, những nốt nhỏ đỏ ngứa nhiều, xuất hiện rải rác trên da cổ và ngực. Người nhà đã đưa đi khám bệnh nhưng không yên tâm nên mẹ bé đã hái lá cây giã nát đắp thêm lên những vùng da này cho mau hết. Bằng cách này các nốt đỏ da không giảm mà nổi nhiều hơn, dai dẳng không hết, trở thành rất nhiều cục cứng, đỏ đau, đỉnh có mủ vàng nhạt lan rộng khắp đầu cổ, ngực, lưng và cả hai cánh tay. Đến khi da toàn thân bị ửng đỏ lên, bé sốt cao, mệt nhiều người nhà mới đưa đi bệnh viện. Khám bệnh và làm xét nghiệm cho kết quả cháu bị ban nhiệt biến chứng nhiễm trùng nặng. Phải điều trị kháng sinh tiêm, phối hợp với rạch thoát mủ và chăm sóc da tích cực bé mới hạ sốt, da hết nhiễm trùng và lành lặn lại.

 Hình ảnh ban nhiệt trên da trẻ
Ban nhiệt xuất hiện khi trẻ đổ mồ hôi nhiều

Ban nhiệt là tình trạng da bị phát ban do viêm tấy, nổi những hạt nhỏ li ti hoặc mảng màu hồng, xảy ra khi trẻ đổ mồ hôi nhiều hơn bình thường. Nguyên nhân do các lỗ chân lông bị bít kín, tuyến mồ hôi bị tắc nghẽn do tế bào chết của da hoặc vi trùng. Ban nhiệt xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể, thường gặp ở những vùng mồ hôi tiết ra nhiều như trán, cổ vai, lưng, ngực, vùng tã lót, các nếp gấp của cơ thể gây ngứa nhiều từng cơn. Bệnh xuất hiện trong vài ngày và hết nhanh khi nhiệt độ môi trường cải thiện, lúc trẻ ngừng đổ mồ hôi. Nếu không được điều trị thích hợp tổn thương ở da sẽ lâu lành, lan rộng gây kiệt sức hoặc bị nhiễm trùng trở thành mụn mủ, gây biến chứng nặng toàn thân. Tùy mức độ tắc nghẽn ống tuyến mồ hôi nông hay sâu có 3 dạng ban nhiệt:

Ban hạt kê còn gọi là ban bạch, thường gặp ở trẻ sơ sinh, gồm những bóng nước trắng li ti xuất hiện từng đám, không viêm cũng không đỏ xung quanh. Ban hạt kê ít gây ngứa và thường biến mất trong vài giờ đến vài ngày.

Ban kê đỏ còn gọi là rôm sảy là dạng thường gặp nhất ở trẻ em. Đây là loại ban ngứa xuất hiện phổ biến vào thời tiết nóng bức, khi các ống tuyến mồ hôi bị tắc ở mức độ sâu hơn lớp thượng bì. Da đỏ lên, xuất hiện rất nhiều bóng nước rời rạc hoặc thành từng chùm dạng đốm lấm tấm đỏ trên da, gây cảm giác như bị kim châm chích hoặc rát ngứa dữ dội từng cơn. Trẻ bệnh thường gãi nhiều, khó chịu và hay quấy khóc.

Ban kê sâu hay ban kê mủ là dạng ít gặp. Xảy ra khi trẻ bị nhiều đợt rôm sảy tái đi tái lại. Nguyên nhân do sự tắc nghẽn phần sâu hơn của tuyến mồ hôi, da bị viêm sâu hơn, có tình trạng sưng viêm và nhiễm trùng thứ phát. Ban lúc này là những mụn cứng, màu sậm hơn. Dạng này cũng ít ngứa hơn rôm sảy nhưng nguy hiểm vì dễ dẫn đến kiệt sức do nhiệt.

Biến chứng nhiễm trùng do chăm sóc không đúng 

Biến chứng thường gặp ở trẻ bị ban nhiệt là nhiễm trùng da thứ phát do trẻ gãi ngứa nhiều trong điều kiện vệ sinh kém hoặc do những biện pháp điều trị không đúng như đắp lá cây giã, đắp đậu xanh nhai nát, bôi nhớt gà, kiêng nước, cữ tắm. Qua nang lông hay chỗ xây xát ngoài da khi trẻ ngứa gãi, các vi trùng thường trú, tạm trú trên da hay vi trùng cơ hội sẽ vào sinh sản ở đó, phát huy độc tính gây nhiễm trùng tạo thành ổ mủ. Da bị nhiễm trùng sưng nóng đỏ lên, thành cục cứng gây đau nhức do sự hiện diện của mủ ở sâu bên dưới, tạo abces, viêm mạch bạch huyết, viêm hạch.  Diễn tiến nặng khi vi trùng vào máu gây nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm trùng hoặc đến gây tổn thương các cơ quan khác như màng não, tim, tủy xương, phổi.

Dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ

Cách chăm sóc đúng tại nhà bằng cách giữ cho da trẻ mát, sạch và khô để giảm ngứa và giảm các kích thích ở da:

- Tránh đổ mồ hôi nhiều: cho trẻ ở nơi thông thoáng, mát mẻ. Ngủ dưới quạt nhẹ. Nếu được cho trẻ ở phòng máy lạnh vào thời gian nóng trong ngày. Hạn chế trẻ chạy nhảy quá nhiều ngoài trời nắng nóng.

- Vệ sinh da hàng ngày: tắm rửa cho trẻ chú ý các vùng da cọ xát, các nếp kẽ. Chọn loại xà phòng kháng khuẩn để làm giảm lượng vi trùng lưu trú trên da.

- Cho trẻ mặc quần áo rộng rãi, bằng chất liệu mỏng và thấm mồ hôi. Thay tã giấy (bỉm) thường xuyên. Cắt ngắn móng tay trẻ để tránh gãi ngứa.

- Cho trẻ uống nhiều nước. Ăn đầy đủ các chất như: rau quả, vitamin và chất khoáng. Tránh thức ăn cay, mặn, thức uống nóng.

- Nếu vùng da bị ban nhiệt có trầy loét, chảy nước, cần thoa thuốc tại chỗ theo hướng dẫn của bác sĩ. Không bôi phấn rôm lên vùng da bị tổn thương.

Đưa trẻ đi khám bệnh khi:

- Nghi ngờ bị bội nhiễm: trẻ gãi ngứa nhiều hơn, vùng da phát ban lan rộng, có dấu sưng đỏ, đau, có mủ hoặc đóng mày.

- Trẻ bị sốt, mệt nhiều hơn, hoặc ban nhiệt không giảm sau 3 ngày.

Giữ cho da trẻ mát, sạch và khô

Để bảo vệ làn da của trẻ nhỏ mùa nắng nóng các bậc phụ huynh nên lưu ý làm dịu, mát da trẻ bằng cách cho trẻ chơi, ngủ ở nơi mát mẻ. Mặc quần áo rộng rãi, bằng vải thấm mồ hôi. Tránh ủ kỹ. Khi trẻ nổi ban nhiệt phải chăm sóc đúng và theo dõi cẩn thận, không tự ý điều trị theo kinh nghiệm.

BS.CK II. NGUYỄN THỊ KIM THOA

Bệnh do giun sán

(suckhoedoisong.vn) - Nhiễm giun, sán là tình trạng khá phổ biến ở các nước đang phát triển trong vùng nhiệt đới, do khí hậu nóng ẩm, tập quán ăn uống, vệ sinh môi trường kém. Theo Tổ chức Y thế Thế giới (WHO) 75% người Việt Nam (tương đương 60 triệu người) mắc bệnh giun sán, có đến 70-90% trẻ em nhiễm giun. Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến một số nét cơ bản về các bệnh do ký sinh trùng đường ruột gây ra còn chiếm tỷ lệ cao ở Việt Nam như lỵ amíp, bệnh do giun và sán.

Bệnh do amip

Đây là bệnh do nhiễm đơn bào Entamoeba histolytica, là một bệnh xuất hiện toàn thế giới nhưng chủ yếu xuất hiện ở các nước nhiệt đới có điều kiện vệ sinh thấp kém. Bệnh gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng và có khả năng gây ra các ổ abces ở những cơ quan khác nhau. Bệnh có xu hướng kéo dài và mạn tính nếu không được điều trị tích cực.

Bệnh lây qua đường tiêu hóa do thức ăn, nước uống nhiễm kén amip.

Biểu hiện giai đoạn cấp là đau bụng, đại tiện nhiều lần 5 – 15 lần/ ngày phân ít hoặc không có, nhiều nhầy mũi máu, đau quặn bụng, đau rát hậu môn, sốt nhẹ; biểu hiện giai đoạn muộn chủ yếu là các triệu chứng đau dọc khung đại tràng, rối loạn tiêu hóa với các đợt táo lỏng xen kẽ; kèm theo có các đợt bùng phát lan tỏa giống giai đoạn cấp. Điều trị hiện nay chủ yếu dùng nhóm imidzole.

 Cho trẻ uống thuốc tẩy giun định kỳ.
Nhiễm giun

Giun kim: là loại giun tròn Enterobius vermicularius dài 1 – 1,5cm, sống ở đoạn cuối hồi tràng và manh tràng; giun cái mang trứng và đẻ ở trực tràng. Giun này chủ yếu gây nhiễm cho trẻ em ở các khu vực tập thể. Nhiễm do thức ăn hoặc nước bẩn có chứa trứng giun, nhiễm tự nhiên ở trẻ em theo đường phân – tay – miệng. Điều trị bằng Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.

Giun đũa: Bệnh do nhiễm loại Ascaris lumbricoides. Giun trưởng thành, sống ở ruột non từ nhiều tháng đến 1 năm rưỡi. Giun cái đẻ trứng theo phân ra ngoài. Lây nhiễm do ăn hoặc uống nước có nhiễm trứng giun đũa. Thời kỳ giun trưởng thành với các biểu hiện rối loạn tiêu hóa không đặc hiệu đau bụng, buồn nôn, nôn khan; ngoài ra giun có thể chui lên ống mật gây đau, viêm đường mật, viêm tụy cấp, tắc ruột… Điều trị bằng Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.

Giun móc: Giun trưởng thành dài 1 – 2 cm sống ở tá tràng và hỗng tràng, chúng hút máu khoảng 0,2ml/ngày, sống trung bình 5 năm do đó gây ra tình trạng thiếu máu nhược sắc nặng. Điều trị bằng Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.

Nhiễm sán

Sán sơ mít: gồm Taenia saginata và Taenia solium, đây là loại giun dẹt có đốt, dài 6 – 10m; sán trưởng thành sống ở ruột non, mỗi đỗt chứa trứng ra ngoài được bò hoặc lợn ăn. Người ăn thịt lợn hoặc bò này không được nấu chín sẽ mắc bệnh. Điều trị bằng Nicosamid hoặc praziquantel.

Sán lá gan lớn: do nhiễm loài sán Fasciola hepatica. Sán trưởng thành sống trong đường mật của bệnh nhân, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành các mao ấu trùng, đóng kén vào các cây sống dưới nước, người ăn phải chúng sẽ vào ống tiêu hóa, đến gan và phát triển trong đường mật. Điều trị đặc hiệu bằng bithionol.

Sán lá gan nhỏ: con trưởng thành sống ở đường mật, đôi khi sống trong ống tuỵ. Trứng nở trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá, đóng nang, người ăn phải loại cá này chưa nấu chín (chủ yếu do tập quán ăn gỏi cá) sẽ mắc bệnh. Điều trị chủ yếu bằng praziquantel.

 Nghịch đất, cát là nguyên nhân dẫn đến nhiễm giun ở trẻ.
Cách phòng và chữa bệnh giun sán:

Giữ vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống cho trẻ. Rửa tay sạch trước khi ăn, lau dọn nhà cửa sạch sẽ.

Tập cho trẻ thói quen rửa tay chân sạch sẽ trước khi ăn.

Thức ăn cho trẻ phải luôn luôn nấu chín, nước uống phải được đun sôi để nguội. Nếu cho trẻ ăn trái cây hoặc rau sống thì phải rửa bằng dung dịch rửa rau quả, khử trùng bằng máy ozon, thuốc tím hoặc ngâm muối và rửa lại nhiều lần dưới vòi nước đang chảy.

Không để trẻ nằm, bò trườn dưới đất, không để trẻ mặc quần bị thủng đít.

Vệ sinh tay chân, cắt móng tay, móng chân sạch sẽ, không đi chân đất.

Quần áo của trẻ bị nhiễm giun cũng phải được phơi ở những nơi nhiều nắng để diệt trứng giun.

Uống thuốc sổ giun định kỳ 6 tháng một lần. Loại thuốc thường cho trẻ uống là piperazin. Ngoài ra còn có thể uống tẩy giun bằng phương pháp dân gian bằng hạt bí ngô hoặc dương xỉ đực, nước sắc hạt cau…

Tất cả mọi người trong gia đình, kể cả người lớn đều phải chữa trị cùng một lúc với cháu bé thì mới trị hết được.

Đối với trẻ đã tẩy giun rồi mà vẫn còn xanh xao, gầy yếu, kém ăn, cần phải kiểm tra xem có loại giun sán gì khác nữa không, hoặc có thể trẻ bị bệnh khác như còi xương, suy dinh dưỡng, sơ nhiễm lao… để chữa trị cho đúng hướng.

ThS. BS. Nguyễn Bạch

Bệnh giun sán

Ngộ độc chì, mối nguy rình rập với trẻ

Những thông tin gần đây rộ lên việc ngộ độc chì xảy ra ở trẻ em. Mới đây, Bộ Y tế ra thông báo báo động ngộ độc chì do trẻ được dung thuốc “cam” đang lan rộng…

Giữa năm 2011, Chi cục tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Sở Khoa học & Công nghệ Lâm Đồng cho biết, các mẫu cốc thủy tinh có nguồn gốc từ Trung Quốc mà đơn vị này kiểm tra đều có hàm lượng chì cao gấp hàng nghìn lần so với quy định cho phép. Gần đây, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cũng công bố rau muống, thịt lợn, gạo... và một số thực phẩm khác cũng có hàm lượng chì vượt quá mức cho phép của Bộ Y tế. Còn ở TP.HCM, Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng TP cho biết đã phát hiện trong sơn phủ đồ chơi cờ tướng của trẻ em chứa hàm lượng chì đến 835mg/kg, trong khi giới hạn lớn nhất cho phép đối với độc chất này là 90mg/kg (vượt ngưỡng đến hơn 9 lần). Ngày 4/11/2011, bệnh viện Nhi Trung Ương cho biết có 4 trẻ dưới 1 tuổi bị ngộ độc nặng suýt nguy đến tính mạng do cha mẹ dùng thuốc Đông y bôi ngoài da gọi là “thuốc cam” bôi chữa các nốt nhiệt hoặc vết viêm ở miệng của trẻ.

Các thông tin vừa kể cho thấy ngộ độc chì do tiếp xúc với sản phẩm có dư lượng chì quá cao là mối nguy đang rình rập người dân, đặc biệt gây ngộ độc cho trẻ là đối tượng rất dễ bị nhiễm độc chì.

Chì và ngộ độc chì

Chì là một kim loại mềm màu xám, ký hiệu hóa học là Pb. Đặc biệt, chì tạo nhiều hợp chất có màu sắc khác nhau (như muối chì cromat có màu vàng rất đẹp) nên thường được dùng trong pha sơn, kỹ nghệ thủy tinh, làm chất màu cho đồ gốm... Chính được dùng đa dạng như vậy nên nếu không có có biện pháp xử lý an toàn thì chì có thể gây ngộ độc. Từ lâu trong ngành Dược đã xảy ra tai biến ngộ độc chì do bào chế dịch truyền natri clorid đẳng trương (thường gọi là nước biển dùng truyền dịch trong bệnh viện) đựng trong chai thủy tinh có pha chì (chì thôi ra làm hại người bệnh). Trong công tác kiểm nghiệm dược phẩm có việc bắt buộc là thuốc đưa ra sử dụng phải tuyệt đối không được chứa kim loại nặng (chì và thủy ngân là điển hình). Từ lâu, cũng đã xảy ra ngộ độc do trẻ em ngậm đồ chơi có pha chì. Đặc biệt, ngộ độc chì kinh niên (còn gọi ngộ độc trường diễn) có thể xảy ra do: ăn các thực phẩm đóng hộp hàn bằng thiếc lẫn chì; uống nước dẫn qua đường ống pha chì; hít phải bụi chì và các hợp chất của nó trong các nhà máy sản xuất sơn, làm bình “accu” (ở ta đã xảy ra khá nhiều vụ ngộ độc này, trong đó có trẻ bị ngộ độc do sống cạnh nơi sản xuất bình accu), mạ kim loại, khai thác chì và đúc chữ in bằng chì; nhân viên tiếp xúc với xăng dầu chứa Pb(C2H5)4 (được xem là chì hữu cơ).

Người ta ghi nhận, lượng dư trên 200mcg chì/ngày trong môi trường tiếp xúc gây nguy hiểm cho hoạt động sống của con người. Còn nếu lượng dư khoảng 1mg/ngày có thể gây ngộ độc chì trường diễn và nguy hiểm nhất chính là ngộ độc chì trường diễn.

Về độc tính, các muối chì đều rất độc và độc tính của nó rất phức tạp. Khi vào cơ thể, chì tích lũy trong các mô nhiều mỡ như não, gan, hoặc mô nhiều sừng như da, lông, tóc, móng. Chì có tác dụng gây hại lên các hệ thống men cơ bản, nhất là men hemosynthetase trong quá trình vận chuyển tổng hợp heme là chất tạo ra hemoglobin (tức huyết sắc tố tạo màu đỏ hồng cầu có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong hô hấp). Nếu chì hiện diện trong máu trên 0,3ppm sẽ ngăn cản quá trình oxy hóa glucose tạo ra năng lượng duy trì sự sống nhưng nếu hàm lượng chì/máu trên 0,8ppm sẽ gây thiếu máu do thiếu hụt hemoglobin theo cơ chế vừa kể. Thiếu máu có thể xem là dấu hiệu đầu tiên trong nhiễm độc chì.

Triệu chứng ngộ độc chì và cách điều trị

Triệu chứng ngộ độc cấp chì: Khi uống phải muối chì sẽ xuất hiện một số dấu hiệu ngộ độc cấp như: rát miệng, nôn, đau bụng, ỉa phân đen sau đó táo bón, có thể bị vô niệu do thận bị tổn thương, tăng urê huyết… Trường hợp ngộ độc chì trường diễn: xuất hiện vành đen ở lợi miệng rất sớm, người có thể có dấu hiệu thần kinh như thay đổi tính tình, dễ cáu gắt, nhức đầu, hoang tưởng ảo giác. Để chẩn đoán ngộ độc chì trường diễn cần chú ý lượng chì có tự nhiên trong cơ thể: mức trung bình của chì trong máu 0,06mg/100ml, trong nước tiểu 24 giờ: 0,08mg. Nếu hàm lượng chì có trong máu hoặc nước tiểu quá cao có nghĩa đã ngộ độc chì.

Điều trị ngộ độc cấp: rửa dạ dày bằng dung dịch natri hoặc magie sulfat. Cho uống thuốc chống độc kim loại nặng. Có thể tiêm truyền tĩnh mạch dung dịch natri clorid đẳng trương có chứa Ca EDTA (là chất giải độc chì).

Cách phòng ngừa

Để tránh nhiễm độc chì cần phải chú ý cải thiện điều kiện làm việc, giảm thiểu lượng bụi chì và hợp chất của nó xâm nhập vào cơ thể, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho công nhân tiếp xúc với chì  6 tháng 1 lần. Đặc biệt, các cơ quan quản lý chức năng cần thường xuyên kiểm tra dụng cụ đồ dùng sinh hoạt (như cốc thủy tinh, đồ nhựa chén bát, đồ chơi trẻ em… in hình màu mè sặc sỡ) đang lưu hành xem có đạt tiêu chuẩn không được chứa chì quá giới hạn cho phép.

Riêng đối với trẻ em, các bậc cha mẹ  cần nâng cao ý thức bảo vệ trẻ bị nhiễm độc chất từ việc lựa chọn đồ chơi cho trẻ. Tốt nhất không chọn đồ chơi sơn phủ màu sắc sặc sỡ, lòe loẹt. Cần có sự nghi ngờ đồ chơi cho trẻ càng có nhiều màu sắc “bắt mắt” càng có nguy cơ chứa chất phủ là độc chất của chì. Trẻ chơi đồ chơi bị nghi ngờ ấy không thu nhiều về sự giải trí và giáo dục mà chỉ có hại do không quản lý tốt về chất lượng. Riêng thuốc Đông y cũng có những độc chất như trong thuốc Tây y; vì vậy, phải thật cẩn trọng khi sử dụng, không nên nghe lời truyền miệng, đồn đại về một toa thuốc, vị thuốc nào đó rồi tự tiện, sử dụng lâu dài - trong khi chưa biết trong toa ấy có chứa độc chất hay không. Cũng đừng quá tin vào cái nhãn hiệu “gia truyền” mà giao phó sức khỏe cho những người không được đào tạo chuyên môn hay hành nghề y học cổ truyền không theo sự quản lý của ngành y tế.

PGS.TS. NGUYỄN HỮU ĐỨC